Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

MARX VÀ ARISTOTLE

Giới thiệu sách:

Phan Biên dịch từ:


MARX VÀ ARISTOTLE
LÍ THUYẾT XÃ HỘI THẾ KỈ MƯỜI CHÍN VÀ CỔ ĐẠI CỔ ĐIỂN 
Edited by George E. McCarthy 

Đây là một tập hợp những bài tiểu luận khác thường. Khi Bức Màn Sắt bị đập vỡ gần đây ở đông Âu tiết lộ tính đa dạng của các truyền thống văn hóa đã bị mất trong suốt quá khứ gần, bức màn, vì thế, cũng che dấu những tác phẩm của Marx trong nhiều năm dường như cũng bong ra từng mảng. Sự biến mất của nó bộc lộ tính phức tạp phong phú của những truyền thống và tầm nhìn đã nâng đỡ lí thuyết xã hội, chính trị và kinh tế của ông. Những tiểu luận trong cuốn sách này cố gắng nhìn xa hơn phía sau bức mành che lịch sử bằng cách khảo sát những ảnh hưởng của triết học cổ Hy Lạp – đặc biệt tư tưởng của Aristotle và Epicurus – lên các công trình của nhà lí thuyết xã hội thế kỉ 19 Karl Marx. Tập hợp này gắn kết vài công trình đã xuất bản trước đó, nhưng đa số đã được viết mới trong tập sách này. Trong thế kỉ 18, nước Đức đã bị bùa mê của thế giới cổ đại thần bí và cám dỗ trong những tưởng tượng của Winckelmann, Lessing, Novalis, Goethe, Schiller, Hölderlin. Nhưng bùa mê được tập trung ở khu vực văn học và nghệ thuật. Tuy vậy, vào thế kỉ 19, sức hấp dẫn kì lạ của người Hy Lạp bắt đầu thâm nhập vào lí thuyết chính trị và kinh tế Đức, cũng như đạo đức học và triết học xã hội. Những nhà tư tưởng Đức này đánh giá một cách có phê phán những nguyên lí và cấu trúc của thời kì hiện đại trong ánh sáng một thất bại được nhận thức nhằm thích nghi với (hoặc ít nhất là thích nghi) những lí tưởng của người cổ đại; những thể chế kinh tế và chính trị được gia tăng khảo sát xuyên qua mô hình khát vọng cổ và kì vọng triết học. Kết quả là tầm nhìn đạo đức, chính trị và thấm nhuần kịch nghệ bành trướng không những vào khuyết điểm và, đôi khi, tính chất nông cạn của thời hiện đại, mà còn làm hoa mắt và làm hỗn loạn những lựa chọn thực tế sẵn có. Viễn cảnh ngây ngất mà người Hy Lạp cung cấp cho thời hiện đại hấp dẫn một cách thẩm mỹ, nâng cấp một cách đạo đức, và thách thức một cách chính trị. Ngay tại điểm này của lịch sử lí thuyết xã hội phương Tây mà khoa học xã hội kinh nghiệm đã được kết hợp với lí thuyết đạo đức học và lí thuyết chính trị. Và với sự hợp nhất này, đóng góp tài năng của Marx đã đi vào tư tưởng hiện đại. Không liên quan đến công trình xã hội, thống trị khoa học hay dự đoán kinh tế (vì ông, nói chung, đã bị diễn giải sai), những đóng góp của ông nên được đo lường bằng bề rộng tầm nhìn được hiểu về mặt đánh giá của ông về các khả năng con người, các lí tưởng chính trị, và hợp lí xã hội. Tầm nhìn của ông về tương lai rất đáng giá và bao quát vì hiểu biết của ông về quá khứ quá sắc sảo và đầy truyền cảm. Việc mở rộng lí thuyết phê bình của ông về sở hữu cá nhân, tự do chính trị, kinh tế thị trường, và sản xuất hàng hóa, một cách chủ yếu, có cơ sở ở chiều sâu hiểu biết về Aristotle và Epicurus và cao độ mà họ đã đạt đến trong những lí tưởng đạo đức của mình.

Triển vọng từ Acropolis (thành phòng thủ) đã tặng ông cơ hội nhằm lí tưởng hóa người Hy Lạp cổ đại trong phạm vi cơ cấu những khả năng thực của chủ nghĩa tự do hiện đại. Ở Marx, có một nỗ lực có ý thức nhằm hợp nhất những mục địch hài hòa, hạnh phúc, và cái đẹp vào trung tâm của xã hội công nghiệp hiện đại. Nhưng lạ thay – dù tính hấp dẫn quá mãnh liệt, ảnh hưởng quá quan trọng, và hàm ý quá thâm sâu – những kết nối này, hầu hết, đều là bí mật được giữ kín. Điều này không có nghĩa là chủ đề đã không được thảo luận trên báo trước đó. Chỉ vì đó không phải là chủ đề trung tâm trong khoa chú giải văn bản cổ của trường phái học giả Marx, cũng không phải nó đã được sử dụng nhằm giúp giải thích sự phát triển của lí thuyết kinh tế và chính trị của Marx trong suốt cuộc đời ông. Tập sách này là một nỗ lực nhằm đền bù một phần cho tình trạng này. Nó sẽ cung cấp một phân tích sâu hơn về quan hệ giữa Marx và Hy Lạp cổ điển từ nhiều tác giả trong các lĩnh vực về khoa học chính trị, triết học, trường phái cổ điển, và xã hội học. Những diễn giải này sẽ cho thấy công trình của Marx như thế nào, từ những nghiên cứu ban đầu trong Luận văn của ông và những tác phẩm đầu tay cho đến những ý tưởng sau đó trong Grundrisse (phác họa)Tư Bản, không thể hiểu chúng mà không có đánh giá mối liên hệ sống còn với thế giới cổ điển.

Ở mỗi giai đoạn quyết định trong sự phát triển trí thức của mình, Marx tham khảo cụ thể đến tầm quan trọng của Aristotle trong suy nghĩ của riêng ông. Ông đề cập Aristotle 30 lần trong những phần hiện có của luận văn tiến sĩ của ông, Về Khác Biệt giữa phái DemocritusTriết Học Tự Nhiên phái Epicurus, và 20 lần trong cuốn Ghi Chép về Triết Học Epicurus; ngay lúc bắt đầu lời giới thiệu cho cuốn Grundrisse, ông phê phán chủ nghĩa cá nhân phiến diện của lí thuyết về bản chất con người và xã hội dân sự theo kiểu Robinson trên đảo hoang của thề kỉ 18 bằng cách qui ngược về quan điểm của Aristotle trong Chính Trị, cho rằng con người mang bản chất chính trị; ông kết nối lí thuyết sản xuất và tiêu thụ của ông trong Grundrisse (nền tảng phê phán kinh tế chính trị) với lí thuyết Aristotle về tiềm năng và thực tế trong Siêu Hình Học; ông dựa vào hoặc Đạo đức phái Nicomachus hoặc Chính Trị của Aristotle 7 lần trong suốt Đóng Góp cho Phê Phán Kinh Tế Chính Trị; và trong tập đầu tiên của bộ Tư Bản, ông thừa nhận Aristotle là “nhà tư tưởng vĩ đại nhất cổ đại” và quyết định đối với sự phát triển của lí thuyết về giá trị nhân công của ông. Những tham khảo cụ thể Aristotle trong tập thứ nhất của bộ Tư Bản rất nhiều: Tham khảo của Marx từ lí thuyết giá trị của Aristotle (bản chất chung, trao đổi, và bình đẳng) ở đầu chương đầu tiên; khác biệt của Aristotle giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi ở đầu chương 2; khác biệt của Aristotle giữa kinh tế hộ gia đình (nghề nghiệp và đổi chác) và buôn bán trong kinh tế nghệ thuật (trao đổi vì lợi nhuận như vốn của các con buôn và vốn sinh lợi) trong các chương 4 và 5; những ý tưởng về bản chất chính trị và xã hội của con người trong chương 13; và quan hệ giữa nhàn rỗi, nô lệ và phát triển kĩ nghệ trong chương 25; giữa những chương khác. Trong Luận văn của mình, Marx thường xuyên rút ra từ Aristotle: Về Tâm Hồn, Siêu Hình Học, Về sự phát sinh loài vật, Vật Lí, về Đang Trở ThànhPhân Rã; và về Thiên Đàng, trong khi trong các tác phẩm kinh tế sau đó ông chủ yếu rút từ Đạo Đức học phái NicomachusChính Trị.

Ngay đầu một số công trình chính về kinh tế, chúng ta thấy Marx công nhận Aristotle cung cấp những quan niệm then chốt cho phê phán của riêng ông về kinh tế chính trị. Sự thừa nhận này cũng quan trọng vì nó cung cấp cho chúng ta bằng chứng rõ ràng rằng hình thức và thực chất những lí thuyết riêng của Marx được hiểu trong phạm vi truyền thống văn hóa và triết học rộng hơn của cổ đại cổ điển. Trong Luận văn, tiếp xúc gần gũi của Marx với triết học tự nhiên hậu Aristotle được tìm thấy trong Epicurus cung cấp cho ông những ý tưởng dùng để chứng minh phương tiện trong việc phát triển lí thuyết kinh tế chính trị của ông sau này. Chẳng hạn, phê phán của ông về thuyết thực chứng và thuyết duy vật của Democritus và việc ông sử dụng thuyết duy vật của Epicurus, triết học của ông về bản chất vật chất và bản chất con người, nhận thức luận, và tư tưởng đạo đức đã cho Marx hiểu biết sâu sắc những nhược điểm của các phương pháp và lí thuyết kinh tế chính trị cổ điển.Chủ nghĩa Epicurus, chủ nghĩa Khắc kỉ, và Thuyết hoài nghi cung cấp cho Marx những phản ứng có chọn lựa đối với sự suy sụp của thành quốc và hệ thống Aristotle và, lần lượt, những thấu hiểu bên trong những tàn dư của chính hệ thống Hegel. Aristotle cung cấp cho Marx khung lí thuyết để phát triển và giải thích những ý tưởng của riêng ông về công dân và dân chủ, về bản chất chính trị của cá nhân và dự phần công cộng, hệ thống kinh tế cung cấp những cấu trúc siêu nghiệm cho sự phát triển giống loài và cá nhân, một quan điểm về qui luật tự nhiên và lí tính, các khái niệm về tích cực và tập quán, giải phóng con người, eudaimonia (hạnh phúc) và tự nhận thức, và cuối cùng là những tương quan phức hợp giữa duy vật và duy tâm, đạo đức và kinh tế chính trị, một lí thuyết về nhu cầu và lí thuyết về giá trị nhân công.

PHÁC HỌA TÁC PHẨM

Phần I: Hegel và người Hy Lạp: Hồi Tưởng các Sự Vật Đã Qua, khảo sát việc trở lại thế kỉ 18 và đầu thế kỉ 19 của thành quốc Hy Lạp cổ đại như là một mô hình khảo sát và diễn giải triệt để sự phát triển trong những thể chế chính trị và xã hội hiện đại. Chương 1 trong tập hợp này đảm nhận khảo sát về ảnh hưởng của thơ ca, nghệ thuật, và kịch nghệ Hy Lạp đến sự phát triển của mỹ học và văn học Đức thế kỉ 18. Trong “Karl Marx và ảnh hưởng của Cổ Đại Hy Lạp lên Tư Tưởng Đức thế kỉ 18”, Host Mewes theo dấu sự phát triển của câu chuyện tình Đức và Hy Lạp đi từ Khai sáng, chủ nghĩa cổ điển, và chủ nghĩa lãng mạn Đức trong các tác phẩm của Winckelmann, Lessing, Herder, Goethe, Schiller, và Hölderlin. Đạo Đức học, triết học chính trị, lí thuyết kinh tế thế kỉ 19 của cả Hegel và Marx trở nên không thể hiểu được mà không có lời dẫn nhập tư tưởng Đức hiện đại quan trọng này. Chính tại đây người Đức Griechensehnsuch (khát khao Hy lạp) bắt đầu. Mewes lí luận rằng chúng ta phải xem Marx “như nhà tư tưởng chủ chốt trong vết rạn nứt đang lớn dần giữa quá khứ và tương lai”. Marx đứng giữa những người cổ đại và hiện đại khi ông sử dụng các phạm trù và khung khái niệm của người cổ đại để giải quyết sự biến đổi triệt để của các cấu trúc chính trị và xã hội thời hiện đại. Trích dẫn các công trình của Georg Lukács, Mewes tuyên bố rằng cổ đại cổ điển đã trở thành một phần của “cuộc đấu tranh của những nhà nhân văn chống lại sự thoái hóa con người bởi sự phân hóa lao động của nhà tư bản”. Người Đức mượn một cách tự do ở thời kì cổ điển khi họ tìm kiếm các phạm trù từ những lĩnh vực có phạm vi rộng: các phạm trù chính trị cho lĩnh vực công cộng đã mất; các phạm trù triết học cho mô hình nhân văn mới nhằm biểu lộ tinh thần và hưởng thụ của con người; các phạm trù mỹ học cho những lí tưởng về cái đẹp, sự hoàn hảo, tính toàn thể, và hài hòa; và các phạm trù đạo đức cho việc tái hòa nhập của trí tuệ và thể xác, vật chất và tinh thần, tự do và nhu cầu, cá thể và xã hội. Hy Lạp phục vụ như một hình thức hoàn hảo và phổ quát mà từ đó sự tan vỡ, phân hóa lao động, những xung đột tầng lớp và thuyết vị lợi của xã hội hiện đại bị phán xét là thấp kém. Những lí tưởng của người cổ đại đã được người Đức phục hồi nhằm lấp đầy nhu cầu đã mất trong chủ nghĩa tân duy vật thế kỉ 18.

Mewes tổng kết các tác giả Đức và những đóng góp cá nhân của họ cho việc trở lại với người cổ đại này: lí thuyết của Winckelmann về sự giản dị và cái đẹp tuyệt đối, lí thuyết của Herder về lịch sử loài người và khai sáng chung, lí thuyết của Schiller về giáo dục mỹ học và kịch nghệ, và lí thuyết Hölderlin về thần thoại học thơ ca và cái đẹp. Ở cuối bài tiểu luận, Mewes quay sang công trình của Eliza Butler Sự Chuyên Chế của Hy Lạp khắp nước Đức và luận văn của bà về tính chất phi tự nhiên của nền chuyên chế tinh thần Hy Lạp trên khắp nước Đức đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng trong những năm 1930 và 1940. Tranh luận về luận điểm này, ông chủ trương rằng đây chính là quan hệ cho phép những người hiện đại tiếp tục giữ lấy những lí tưởng, những giá trị, và những khả năng đã mất trong cuộc đổ xô đến thời hiện đại. Ánh sáng của Khai sáng đến từ ngọn lửa Hy Lạp và nó lan tỏa về hướng bắc trong thế kỉ 18.

David Depew tiếp tục dòng tư tưởng này trong bài phân tích của ông về lí thuyết chính trị của Georg Friedrich Hegel. Depew bắt đầu từ chương 2, “Thành quốc được Tôn tạo”, bằng cách theo dấu sự phát triển lí thuyết chính trị của Hegel từ những nỗ lực ban đầu trong việc kết hợp các lí tưởng cổ điển Hy Lạp trong tiểu luận nổi tiếng Qui Luật Tự Nhiên vào những quan điểm phê phán và hoài nghi hơn trong Triết Học về Quyền. Bước vào các công trình của Aristotle từ những ngày đầu của ông ở Gymnasium, Hegel được Depew xem như là nỗ lực nhằm viết lại Chính Trị của Aristotle cho khán giả Đức thế kỉ 19, khi đồng thời vượt những giới hạn, thuyết nhị nguyên và nền tảng của nó trong chế độ chiếm hữu nô lệ cổ điển. Hegel bắt đầu với tư cách một nhà phê bình nhị nguyên luận tinh thần-thể xác và thuyết duy vật thời Khai sáng, việc nhấn mạnh sự cứu rỗi cá nhân và tính chất trần tục khác tìm thấy trong Cơ Đốc Giáo. Phản ứng lại những ảnh hưởng hạn hẹp và nghiêm ngặt của Hobbes và Descartes và lí thuyết chính trị về sở hữu cá nhân, Hegel tìm kiếm ở người Hy Lạp một câu trả lời cho vấn đề về khả năng tái hòa nhập của cá nhân vào xã hội và trật tự.

Theo Depew, Hegel cũng nỗ lực kết hợp Athens và Jerusalem – sự bành trướng của niềm tin “một số người tự do” vào niềm tin “tất thảy đều tự do”. Marx lại tiếp tục phát triển này bằng cách vượt lên thứ bậc tri thức và hoạt động con người của Aristotle. Ông lần lượt kết hợp những xung đột giữa poiesis (sáng tạo và tri thức kĩ thuật), praxis (hành động chính trị và minh triết thực tế),theoria (suy tư lí thuyết và khoa học). Hegel cũng đã nỗ lực điều giải, đặc biệt trong những công trình sau này của ông, nhưng đã thất bại trong việc giải quyết những phân hóa này trong hình thức tri thức. Theo Depew, đấy là vì Hegel đã không hiểu những phân hóa trong xã hội dân sự với những hệ thống tự cung ứng cài vào nhau, cạnh tranh, tài sản riêng, và chủ nghĩa cá nhân hẹp hòi. Những phân hóa này không thể giải quyết bằng thể chế hóa chủ nghĩa cá nhân giả hiệu tức nghiệp đoàn hóa bằng hình thức quân chủ hay hệ thống phường hội cổ xưa. Marx, ngược lại, bắt đầu tổng hợp những khu vực này bằng niềm tin của ông vào tính chính trực và hợp lí, nghĩa là, tính hợp lí của tri thức, nền dân chủ có dự phần cá nhân, và làm việc trong phạm vi một xã hội tự do.

Depew nhấn mạnh một những những đóng góp quan trọng của Hegel trong thảo luận này: phân tích của ông về các nguyên lí và cấu trúc của nhà nước hiện đại. Những đặc tính của thời hiện đại rõ ràng tự phân biệt với những đặc tính cổ đại cổ điển. Hegel là “Arsitotle mới” đã phác họa những nguyên lí của thời hiện đại: niềm tin vào những quyền tự nhiên trừu tượng, tự do kinh tế theo thương trường, và tự do chủ quan trong ý thức và tự nguyện (chủ nghĩa lãng mạn, Cơ Đốc Giáo, và triết học Kant về lí tính thực tiễn). Những nét cấu trúc về xã hội thị trường gồm xã hội dân sự, thị trường cạnh tranh, chuyên môn hóa công việc, tài sản tư, và sự vô tổ chức, cũng như những cấu trúc của nhà nước hiện đại (quyền mang tính lí thuyết, tài sản, gia đình, xã hội dân sự, và chính quyền nhà nước). Ngay trong những cấu trúc này tồn tại chính khả năng cho Hegel, đó là khoa học nhân văn (tức Hy Lạp cổ điển) có thể thiết lập những mẫu xã hội mà ưu thế của nó là thừa nhận tinh thần và liên cá thể – củng cố lẫn nhau tự ý thức và chân giá trị. Đấy là tiêu biểu cho nỗ lực dứt khoát của Hegel nhằm tái cấu trúc một xã hội hiện đại từ cuộc sống đạo đức Hy Lạp (Sittlichkeit).

Nơi Aristotle loại trừ kinh tế khỏi chính trị, thì Hegel lại nỗ lực kết hợp chúng. Theo sự dẫn dắt của Manfred Riedel, G.A. Kelly, và Judith Shklar, Depew xem Hegel như sự dịch chuyển – tại trước và đầu thế kỉ 19 – khỏi những nỗ lực ban đầu của ông ở việc tái hòa giải trực tiếp và tổng hợp giữa người cổ đại và hiện đại. Việc cắt đứt và rời khỏi những công trình ban đầu của ông được hoàn tất lúc bắt đầu viết Hiện Tượng Học Tinh Thần. Quả thực, Hegel dịch chuyển theo hướng sáng tạo một lí thuyết Plato mới về chính trị. Những chủ đề được đề cập trong chương của Depew về bản chất của nền kinh tế hộ gia đình Hy Lạp, phê phán của Marx về Hegel, mối quan hệ giữa các nguyên tắc đạo đức và chính trị (năng lực), các cấu trúc xã hội, và bản chất Sittlichkeit (cuộc sống đạo đức) được phát triển bởi những cộng tác viên khác vào tập hợp tiểu luận này.

Steven Smith trong “Nguồn gốc của Biện chứng”, chương 3, tiếp tục theo dấu những mối quan hệ giữa người cổ đại Hy Lạp và Hegel. Ông cũng xem Hegel như “Aristotle của Đức”. Smith tổng kết những trường phái tư tưởng khác nhau qui nguồn gốc của phương pháp biện chứng Hegel cho Socrates, Heraclitus, bi kịch Hy Lạp, hay chủ nghĩa Plato mới của Proclus và Plotinus. Mặc dù ông không loại bỏ bất cứ những khẳng định này, thay vào đó Smith nhấn mạnh đến vai trò của chủ nghĩa hoài nghi cổ đại từ bệnh Nha chu vùng Elis, từ Socrates, và từ những nhà Ngụy biện, xuôi về Sextus Empiricus. Ông thừa nhận tầm quan trọng của phê bình hoài nghi về thuyết nền tảng vốn nằm ở trung tâm phương pháp của Hegel và được tuyên ngôn một cách rõ ràng nhất trong lời giới thiệu nổi tiếng cho cuốn Hiện tượng học Tinh thần.

Không giống như những gì Smith gọi là “Chủ nghĩa Giáo điều của thuyết Hoài nghi hiện đại” thấy trong các công trình của David Hume và G.E Schulze, hình thức Hy Lạp của chủ nghĩa hoài nghi triệt để và thâm sâu hơn. Nó công kích vào cả chủ nghĩa duy lí lẫn chủ nghĩa kinh nghiệm với tư cách là những nền tảng không thỏa đáng cho tri thức, cũng như những nền tảng nhận thức luận về chọn lựa hợp đạo đức. Hình thức nhận thức luận này của thuyết hoàn nghi gây cảm giác bình lặng (ataraxia) tâm hồn như nhà triết học rút lui khỏi hoạt động chính trị, trong khi chủ nghĩa hoài nghi đạo đức hủy hoại truyền thống đạo đức và văn hóa của thành quốc khi họ phê phán những giá trị phổ biến của hệ thống chính trị. Mục tiêu của họ là nhằm gia tăng tự ý thức và tự trị tinh thần. Đối với Smith, chủ nghĩa hoài nghi nằm ở trung tâm của hệ thống và phương pháp Hegel, vì Hegel nỗ lực đạt đến một nhà nước bình yên qua việc lĩnh hội lịch sử vận động của Tinh Thần.

Chủ nghĩa hoài nghi hiện đại từ Hume đến trường phái Kant mới chưa bao giờ triệt để trong mắt Hegel, vì họ chỉ có thể thách thức giá trị pháp lí của thế giới tự nó nằm ngoài ý thức. Họ để lại nguyên vẹn cái thế giới của quan sát và nhận thức, ở bên ngoài phạm vi phê phán của chủ nghĩa hoài nghi. Đấy là những gì khiến hình thức hiện đại trở nên giáo điều. Hegel, ngược lại, công kích thế giới tất định ý thức, nhận thức, và hiểu như là cơ sở cho tri thức thực sự, nghĩa là, thế giới được cho một cách trực tiếp. Việc phê phán “tính khách quan của thế giới” này cung cấp cho Hegel nền tảng của phương pháp phê phán hiện đại và biện chứng trong phân tích, có nguồn gốc triết học nằm ở kinh nghiệm Hy Lạp. Theo Hegel, chủ nghĩa hoài nghi dẫn đến thuyết hư vô và chủ quan triệt để. Chúng là những hình thức ý thức phản ảnh tình trạng đổ nát của những nền văn minh cổ điển. Smith sau đó quay sang mặt thực chứng của phép biện chứng cùng ý niệm về siêu nghiệm và sát nhập (Aufhebung), nhu cầu, toàn thể, và cấu trúc lí tính của Tồn tại. Ông cũng sát nhập trong phân tích này các giá trị hiện đại của phép biện chứng từ những viễn cảnh của chủ nghĩa Marx và triết học phân tích.

Phần II: Marx và Epicurus: thuyết Duy vật, Đạo Đức học, và Vật lí Hy Lạp, tập trung vào một phân tích của Luận văn Tiến sĩ của Marx và những giai đoạn phát triển ban đầu của lí thuyết chính trị và kinh tế của ông. Nó bắt đầu bằng chương 4, tiểu luận của Michael DeGolyer “Dấu ấn Hy Lạp của Ma trận Marx”. Đây là tiểu luận rộng nhất trong tập hợp, vì nó tổng kết sự phát triển của tư tưởng Marx từ những tác phẩm sớm nhất đến Tư Bản. Một số chủ đề cụ thể bao gồm một phân tích về bản chất giáo dục châu Âu thế kỉ 19 chìm ngập trong đào tạo cổ điển, thủơ hàn vi và việc học của Marx tại Đại Học Berlin (mà vào thời gian đó, là trung tâm nghiên cứu cổ điển quốc tế), Luận văn của Marx về Epicurus và Democritus tập trung vào chủ nghĩa duy vật Hy Lạp và một lí thuyết về công bằng, mối liên hệ giữa Luận văn và những tác phẩm về kinh tế sau đó của Marx, và những yếu tố Aristotle trong lí thuyết xã hội kinh tế của ông trong Tư Bản. Trong tổng quan chi tiết của mình, DeGolyer xem các công trình của Aristotle như một nguồn truy cập vào “cấu trúc ẩn chứa bên trong” tư tưởng Marx. Quả thật, DeGolyer lí luận một cách thuyết phục rằng trong Tư Bản Marx đã đọc Aristotle thông qua Epicurus khi ông kết hợp cả khoa học và đạo đức học, chủ nghĩa duy vật và đạo đức, kinh tế và chính trị vào một công trình toàn diện. Phác họa lí thuyết Aristotle về công bằng và những hình thức khác nhau của nó – công bằng về phân phối, công bằng về giao hoán tức trừng phạt, và công bằng tương hỗ trong phạm vi lí thuyết toàn thể của ông về nhu cầu và hữu nghị – DeGoloyer sau đó chỉ ra làm thế nào Marx mượn những ý tưởng này và hợp nhất chúng vào lí thuyết của ông về cộng đồng, loài người, nhu cầu con người, phê phán các quyền tự nhiên và đạo đức, lí thuyết về chuyển nhượng kinh tế, và cuối cùng lí thuyết về công bằng.

Tiểu luận thứ 2 trong nhóm này, chương 5, là của Laurence Baronovitch: “Karl Marx và Triết học Hy Lạp”. Phần này xem Luận văn của Marx như là một công trình tự phát triển và khai sáng mà qua đó Marx nỗ lực nhằm giải quyết vị trí của phái tả Hegel tương quan với chính Hegel. Lựa chọn của Marx trong chủ đề luận văn và liên quan của ông với triết học hậu Aristotle đều là những phản ảnh về tình yêu của ông với tư tưởng Hy Lạp. Nhưng phản ứng và phê phán thời kì Hellenistic cũng cung cấp cho ông một cơ hội để xét lại quan hệ của ông với cả Hegel và các triết gia hậu Hegel. Trong một khúc co hiếm hoi trong diễn giải, Baronovitch thấy Marx mắng mỏ những người đi sau Hegel – David Strauss, Bruno Bauer, Ludwig Feuerbach, và Max Stimer – vì đã có những thừa nhận phi phê phán ban đầu về Hegel và sau đó vì không phê phán đủ. Bằng cách nghiên cứu quan hệ của Epicurus và Democritys với Aristotole, Baronovitch lí luận, Marx đem áp dụng triệt để vào quan hệ của riêng ông với Hegel và những người theo ông. Hầu hết văn học thứ cấp về chủ đề này đặt Marx đúng vào phái tả Hegel ngay tại thời điểm này của đời ông năm 1941. Baronovitch thách thức những diễn giải này với lí luận rằng Marx thậm chí sau đó đã bắt đầu thách thức phái tư tưởng Hegel, ngay trước khi cắt đứt hoàn toàn với họ trong tác phẩmGia Đình Sùng Đạo (1844). Ông lí luận rằng Marx thách thức những người phái tả Hegel ngay từ đầu những công trình bằng cách kết tội họ là “không biết, phi phê phán ngây thơ, và vô nguyên tắc” trong những diễn giải và phê bình của họ về Hegel. Chính tại điểm này trong phân tích của Marx mà Baronovitch bắt đầu khảo sát tầm quan trọng của ông về quan điểm hạnh phúc và công bằng của Epicurus. Lặp lại trong phản ứng với những diễn giải có qui ước hơn (thậm chí những diễn giải trước đó của riêng ông), Baronovitch lần theo một phê bình gay gắt tính thụ động và đạo đức giả của Epicurus qua vấn đề chế độ nô lệ Hy Lạp. Epicurus đã kết tủa một luồng tự do tinh thần và lí thuyết cho Marx, nhưng chính Spartacus là người đã cung cấp sức đẩy cho luận điểm thứ mười bảy trong Những Luận Điểm về Feuerbach: “Các nhà triết học chỉ diễn giải thế giới bằng nhiều cách khác nhau; vấn đề là thay đổi nó”.

Phần III: Marx và Aristotle: Những Khả năng Con người và Cấu trúc Xã hội, trực tiếp đưa chúng ta vào quan hệ giữa Marx và Aristotle. Ba chương trong phần này của công trình tập trung vào quan điểm của Marx và Aristotle về bản chất con người, đó là phát triển và tự nhận thức về các khả năng của mình trong phạm vi các cấu trúc xã hội được định nghĩa rõ ràng. Bài báo của Martha Nussbaum tập trung vào Aristotle trong một đề cập vắn tắt về Marx ở phần cuối, trong khi tiểu luận của Philip Kain phát triển chi tiết hơn những yếu tố Aristotle trong lí thuyết đạo đức của Marx. Cả Nussbaum và Kain đều nhấn mạnh những ý niệm về bản chất và khả năng con người, cũng như những điều kiện xã hội thiết yếu có trước: các cấu trúc xã hội. Luận văn của William Booth nâng tầm quan trọng đóng góp bằng cách phân tích những hình thức khác nhau của các cấu trúc xã hội được Marx khảo sát mà ông tin rằng, hoặc được cư trú hoặc được tạo điều kiện cho việc phát triển đầy đủ của tiềm năng và hoạt động của con người: nền kinh tế hộ gia đình của Hy Lạp cổ, nhà máy hay hãng, và chủ nghĩa cộng sản. Ba chương trong phần này được gắn kết lại bằng tri thức siêu nghiệm về quan hệ giữa bản chất con người và kinh tế chính trị: kinh tế là nền tảng lệ thuộc cho những mục đích cơ bản về tiến bộ con người trong phạm vi cộng đồng.

Chương 6 là “Bản chất, Chức năng, và Khả năng” của Martha Nussbaum. Bà giới thiệu lí thuyết của Aristotle về lợi ích, nhu cầu con người, và hoạt động của họ trong phạm vi ngữ cảnh phân bố chính trị trong kinh tế, xã hội, và các tiềm lực chính trị của cộng đồng . Bà tìm cách gạn lọc những khác biệt quan trọng giữa “chuẩn bị tốt” và “hoạt động tốt”, tức sự khớp nối giữa các cấu trúc xã hội cần thiết cho thực hành của cuộc sống tốt và nuôi dưỡng con người. Quan điểm chính của bà là Aristotle cung cấp cho các nhà lí thuyết chính trị tầm nhìn vững chắc về cuộc sống tốt hơn những nhà tư tưởng giải phóng hiện đại ngày nay – đặc biệt John Rawls. Vì thế, phê bình của Aristotle về “bái vật giáo tiền và hàng hóa” trong nền kinh tế trao đổi đã cung cấp cho ngữ cảnh xã hội một “lí thuyết vững mạnh” về cuộc sống tốt và hạnh phúc. Nussbaum đề cập những quan điểm khác biệt và xung đột về phân phối chính trị tìm thấy trong Chính Trị của Aristotle. Bằng cách thảo luận về cơ cấu chính trị thực hành tốt nhất và lối sống, bà lí luận rằng chủ đề nổi bật của Aristotle chứng minh một thể loại phân phối chính trị dân chủ hơn, trong đó “cái tốt của mỗi người là những gì dành riêng cho họ”.

Hạnh phúc đối với Aristotle, bà tiếp, phải được áp dụng cho tất thảy hay ít nhất hầu hết các thành phần của cộng đồng chính trị và không dựa trên giầu có, quyền lực, tức ưu tiên hơn thiểu số. Xã hội nên được tổ chức nhằm cho phép phát triển đầy đủ nhất những khả năng cá nhân. Nó sẽ thừa nhận và cung cấp sự nhàn nhã tương đối, không có công việc lặp đi lặp lại, tình bạn thân thiện và những ràng buộc gia đình, cơ sở kinh tế cho cuộc sống và dự phần chinh trị mở ra cho tất thảy. Vì những kết nối chặt chẽ giữa các cấu trúc xã hội và sự phát triển con người (vd, giáo dục), những khả năng (những năng lực) ngủ yên trong hầu hết các cá nhân, không thể có bất cứ cơ sở được thiết lập trước tức được xác định trước nào cho dự phần chính trị và tự nhận thức. Nghĩa là, không thể có bất cứ tiêu chuẩn được thiết lập trước nào về sinh nở, của cải, tài năng, hay đức độ mà nó xác định một cá nhân như một công dân, vì đó là vai trò của thành quốc nhằm giáo dục và cổ vũ phát triển tiềm năng cá nhân. Việc giáo dục và phát triển này sẽ bị loại trừ bằng việc thiết lập những tiêu chuẩn trên. “Diễn giải dân chủ” này của chính thể Aristotle, một cách quyết định, là một đặc tính tiêu biểu của tiểu luận Nussbaum, mặc dù chính bà chưa bao giờ sử dụng thuật ngữ dân chủ. Đối với bà, những tham khảo kinh nghiệm của Aristotle cũng tiết lộ định hướng dân chủ này: ông phê phán Sparta, ca ngợi Solon và những nhà làm luật vốn cũng là những nhà giáo dục, và lí tưởng của ông dựa vào thành phần chính trị vùng Cretan. Những gì cần thiết là cá nhân đó có khả năng phát triển lí lẽ thực tế và tinh thần công cộng khi họ được hỗ trợ giáo dục thiết yếu và hỗ trợ kinh tế.

Vì thế tiêu chuẩn sau cùng về quyền công dân và dự phần đầy đủ trong thành quốc là “khả năng nhằm thực hiện chức năng đang xét” trong cùng cách mà người ta phán quyết ai sẽ chơi một nhạc cụ tùy vào năng khiếu sử dụng của họ. Bà ta đẩy lí luận đi xa hơn bằng cách tuyên bố rằng vai trò của nhà lập pháp giỏi là chú trọng đến nhu cầu của “tất thảy họ, hơn là cố gắng phóng đại hoạt động xuất sắc” của một số người. Khúc cua dân chủ triệt để này đối với đòi hỏi của Aristotle, rằng hoạt động con người luôn được hiểu về mặt thể chế xã hội, vì cá nhân không sinh ra trong vai trò chính trị và đạo đức. Lí thuyết chính trị và kinh tế được hợp nhất vào đạo đức học. Hình thức cao nhất của hoạt động con người, theo Aristotle, không nằm trong dinh dưỡng hay nhận thức giác quan, mà trong sự phát triển tính hợp lí thực tế của chúng ta, vì chính hoạt động dự phần chính trị này, một cách tối hậu, sẽ xác định chúng ta là con người. Cuối cùng, Nussbaum chấm dứt phân tích của mình bằng một tham khảo ngắn, nhưng quan trọng, liên quan đến “Bản thảo Kinh tế và Triết học 1844” của Marx. Marx cũng sử dụng một chiều hướng tư tưởng của Aristotle trong những bản thảo ban đầu vì ông thấy mối liên hệ giữa phát triển tiềm năng con người trong tồn tại giống loài và những nền tảng kinh tế của tế xã hội.

Đóng góp của Philip Kain, “Aristotle, Kant, và Đạo Đức học của Thanh niên Marx” – chương 7 – tiếp tục ngay từ dòng tư tưởng này, Kain cũng theo dấu việc thống nhất cá nhân và xã hội của Marx bằng cách xem chúng như những phạm trù trong phạm vi triết học Aristotle và Kant. Nghĩa là, ông định theo dấu việc thống nhất Moralität (Đạo Đức học), gồm tự ý thức cá nhân, ý thức, và tự trị đạo đức, với Sittlichkeit (cuộc sống đạo đức), gồm các qui luật, các thể chế xã hội, thuế má, và truyền thống. Để có tự ý thức một cách tự do và hành động theo đạo đức, các triết gia phải xem xét tầm quan trọng của xã hội trong khung ngữ cảnh đạo đức. Tính hợp lí cá nhân cũng cần một hình thức tổ chức xã hội hợp lí trước (vd, những thể chế chính trị và kinh tế), là kết quả của việc cụ thể hóa mục đích cá nhân và nhân công. Kain xem Marx như thiết lập kết nối trung gian giữa Moralität (đạo đức) Sittlichkeit (cuộc sống đạo đức) của tồn tại giống loài hay nhân công, vì thế giới khách quan được kiến tạo trong chính hành động lao động. Hình-thức cao nhất của hành động đạo đức, vì thế, là tự do biểu lộ bản ngã tức tự do biểu lộ bản chất của mình như một tồn tại giống loài: “Mỗi vật có một quá trình hoạt động, tức chức năng, và khi nó hoàn thành một cách đầy đủ hoạt động chính đáng của mình tức chức năng, thì nó hiểu rõ bản chất của nó và hoàn thành mục đích của nó, tức điều tốt”. Rõ ràng Kain xem đây là vay mượn từ Aristotle của Marx. Tại điềm này trong phân tích của ông về Marx, có vẻ như Kain đang song hành cùng những ý tưởng phát triển trong phân tích của Nussbaum về Aristotle. Tom Rockmore phát triển tiếp sự tương đương giữa Marx và Aristotle ở điểm cá biệt này trong Phần IV.

Khi trang trải những giả định nhân loại học trong các tác phẩm sớm nhất của Marx, Kain tập trung vào lí thuyết nhu cầu của ông, vì nó biệu lộ bản chất con người. Các nhu cầu phát sinh trong một xã hội cá biệt cung cấp cho chúng ta một tiêu chuẩn đánh giá nhằm đo lường liệu các cấu trúc kinh tế (lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội tương ứng) phản ảnh hay bóp méo sự phát triển những nhu cầu thực sự của con người hay chỉ những nhu cầu nhân tạo. Theo cách hiểu này thì bản chất của nhân loại – là một tồn tại giống loài có một loại chức năng nhất định – có thể so sánh với hình thức tồn tại xã hội thực thụ của nó. Trong xã hội tư bản, nhu cầu con người được đo lường bằng những biến dạng tạo ra qua việc trao đổi hàng hóa và kinh tế thị trường; nhu cầu con người giảm thành những chi tiêu phát sinh và nhu cầu của quá trình sản xuất. Phương pháp so sánh tồn tại của một vật với bản chất của nó (tồn tại giống loài và nhu cầu con người) này là, đối với Kain, một sự tiếp cận vay mượn từ Kant (vd, nguyên lí về mệnh lệnh tuyệt đối), khi sánh hiện thực hiện diện với những khả năng tương lai của nó tiêu biểu cho việc trở lại với Aristotle (vd, học thuyết về bản chất). Nhu cầu con người và tồn tại giống loài đều là biểu hiện khả năng và quyền lực của con người, mà lần lượt cần một xã hội dân chủ để thực hiện. Các cá nhân có một mệnh lệnh để thực hiện tự do của họ trong các thể chế xã hội qua hoạt động và, trong quá trình, thực hiện lợi ích xã hội và cá nhân. Như Kain hiểu Marx, “đạo đức nghĩa là hiểu rõ bản chất mình”. Đó là quá trình lịch sử mà qua đó các cá nhân sáng tạo các hình thức tồn tại xã hội của họ trong những sắp đặt chính trị và kinh tế riêng biệt, qua đó họ hòa giải những nhu cầu của mình và các thể chế xã hội trong một xã hội tự do, và cuối cùng, qua đó họ cụ thể hóa bản chất của mình với tư cách tồn tại giống loài trong xã hội và lịch sử.

Trong chương 8, tiêu đề “Hộ Gia Đình, Thị Trường, và các Hãng”, William James Booth cố gắng khảo sát những hình thức đan xen của các nền kinh tế phi thị trường được Marx xem như: hộ gia đình hay mô hình cư trú thời cổ đại, nhà xưởng hay hãng, và chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu của ông là khảo sát những quan hệ kinh tế thay thế mà, tư tưởng Marx, đã giúp quyết định “làm thế nào tự do có thể vắng (hay thay thế) bóng thị trường”. Tầm quan trọng ở đây rõ ràng nằm ở phân tích cấu trúc các hình thức xã hội cho phép thực hiện đầy đủ các khả năng con người, các hoạt động, và nhu cầu. Ở đây, Aristotle cũng cung cấp một số manh mối giá trị về các cấu-trúc của một xã hội thay thế với lí thuyết kinh tế hộ gia đình và sự lệ thuộc của quan hệ kinh tế và thị trường vào cộng đồng chính trị và đức tính dân sự, của ông.

Booth cũng hoạt động trong phạm vi viễn cảnh chung xuyên suốt nhiều tiểu luận trong tập này: sự cần thiết có một phân tích về quan hệ giữa nguyên tắc đạo đức (tự do và tự trị) và các cấu trú xã hội. Trong chương trước, Kain khảo sát những hàm ý nhân loại học và triết học của kết nối này, trong khi Booth khảo sát mặt cấu trúc và chính trị của nó. Để hoàn thành nhiệm vụ này, Booth bắt đầu bằng một nghiên cứu lí thuyết về nền kinh tế hộ gia đình cổ đại của Aristotle, nó đã cung cấp cho Marx những phạm trù then chốt giải thích giá trị thặng dư và chủ nghĩa tư bản. Marx chấp nhận bố trí của Aristotle về kinh tế tiền tư bản bằng cách phân biệt giữa kinh tế giá trị phi thị trường sử dụng phụ thuộc vào nhu cầu lớn hơn của xã hội (nghệ thuật quản lí hộ gia đình) và kinh tế làm giàu bằng trao đổi giá trị dựa trên trao đổi thị trường và theo đuổi tiền bạc không giới hạn. Khác biệt này sau đó giúp Marx trình bày các mối quan hệ giữa trao đổi đơn giản về hàng hóa C-M-C (oikonomike: kinh tế đạo đức) và việc sử dụng hàng hóa để trao đổi tiền bạc và lợi nhuận M-C-M (chrematistike: kinh tế nghệ thuật). Hoạt động kinh tế trong kinh tế hộ gia đình chỉ được sử dụng như phương tiện cho mục đích đạo đức cao hơn nào đó và thỏa mãn nhu cầu vật chất cơ bản. Tự nó không không đi đến kết thúc. Tại điểm này, Booth khảo sát sự phân hóa lao động và thứ bậc xã hội của kinh tế hộ gia đình cổ đại chi tiết hơn.

Marx bị phản đối bởi cấu trúc chuyên chế và độc đoán của nền kinh tế dựa trên thống trị phụ nữ và nô lệ cổ đại này. Tuy nhiên, lí thuyết kinh tế của Aristotle không cung cấp nền tảng vững chắc cho các nền kinh tế của ông sau đó trong Tư Bản. Nó cung cấp nét khác biệt về phạm trù trung tâm giữa sử dụng giá trị và trao đổi giá trị, cũng như ý tưởng cho rằng các nền kinh tế phải lệ thuộc vào đạo đức học và chính trị, nghĩa là, cuộc sống tốt và hạnh phúc. Booth tiếp tục và cho rằng lí thuyết về kinh tế hộ gia đình của Aristotle cung cấp cho Marx “một phần nền móng lí thuyết cộng sản của ông”. Những gì lôi cuốn Booth theo quan điểm này là tính chất liên kết trong phạm vi một nền kinh tế hợp đạo đức phi thị trường giữa các nền kinh tế, những mục đích và nhu cầu của con người, cộng đồng, và tự do cá nhân. Sau đó thì điều này được đối trọng với những bất lợi và sự thống trị của thị trường trao đổi. Kế tiếp Booth quay sang chủ nghĩa tự do của kinh tế thị trường và tổ chức tự do hình thức của nó, bình đẳng về con người, các quyền cá nhân. Nhưng tự do hình thức của thời hiện đại cũng bị sản phẩm hóa từ cộng đồng tràn vào. Những hình thức thống trị và kiểm soát được thay thế bằng cùng thứ của cộng đồng chuyên quyền cổ đại. Nhân công tự nó trở thành hàng hóa như thị trường và sự trao đổi giá trị lan tràn khắp mọi mặt đời sống.

Vì chủ nghĩa tư bản sản xuất ra nền kinh tế trao đổi, nó cũng sản xuất, theo Marx, một hình thức chuyên quyền: các nhà máy. Booth tiến hành khảo sát cấu trúc, chức năng công nghệ, phân hóa lao động xã hội, sự tương thuộc, kỉ luật, và chuyên môn hóa của hình thức chuyên quyền hiện đại này. Thị trường cung cấp cho xã hội hiện đại hệ thống kinh tế cao cấp so với người cổ đại, vì sự bình đẳng hình thức, tự do, quyền con người, và tính chất cá nhân. Thị trường cũng cao cấp đối với hình thức chuyên quyền nhà máy hiện đại với cấu trúc thứ bậc và độc đoán. Những kêu gọi đạo đức trong chuyển nhượng, đàn áp, và phi cá nhân hóa được dành riêng trong phân tích của Booth về hình thức xã hội trong sản xuất. Trong diễn giải này về Marx, chủ nghĩa tự do bị tách thành thị trường tự do tiềm năng và các cơ cấu sản xuất hà khắc dựa trên lợi nhuận tối đa. Tự do có giới hạn của thị trường được xem là ưu việt hơn chế độ chuyên quyền trong quan hệ chủ tớ của hộ gia đình cổ đại. Tuy nhiên, nhà máy tái sản xuất cái sau ở mức độ mới.

Trong mục cuối của tiểu luận, Booth nêu lên vấn đề hết sức quan trọng của chủ nghĩa cấu trúc: làm thế nào ta có thể xây dựng một hệ thống phi thị trường mà không tái sản xuất đàn áp và thứ bậc của kinh tế cổ đại hay chủ nghĩa tư bản tự do? Cùng chung những nhận xét rải rác của Marx, Booth pha trộn những thành phần của một chủ nghĩa xã hội đạo đức tức“kinh tế hộ gia đình mới”, từ đó tiếp tục xúc tiến dòng lí luận trong hai chương trước trong phần III: Lí thuyết nhu cầu của Marx; những lí tưởng tự trị tự do, công bằng, và tính chất cá nhân; những nguyên tắc và cấu trúc của cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Không có biến đổi cấu trúc trong lĩnh vực kinh tế và chính trị thì khả năng để nhận biết tiềm năng con người bị phủ nhận.

Phần IV: Marx và Aristotle: Đạo đức và Thói Quen, bắt đầu bằng thảo luận đảm nhận bởi Richard Miller và Alan Gibert về sự tồn tại lí thuyết đạo đức ở Marx và quan hệ giữa Marx và Aristotle. Phần này chấm dứt với hai diễn giải khác biệt một cách triệt để của Joseph Margolis và Tom Rockmore về sự mang nợ của Marx đối với Aristotle trong lí thuyết về chủ quan, hoạt động, và tồn tại giống loài. Trong chương 9, “Marx và Aristotle: Một loại chủ nghĩa kết quả”, Richard Miller phát triển lí luận rằng Marx và Aristotle đã luân phiên trình bày cả lí thuyết quyền dựa trên chính trị và thuyết vị lợi. Lí thuyết của họ được hướng dẫn bằng cách phân tích và phán quyết các thể chế xã hội dựa trên kết quả mà họ có nhằm xúc tiến cuộc sống tốt và hạnh phúc. Miller phác họa tám nét cơ bản và những đòi hỏi về cuộc sống tốt và hạnh phúc của Aristotle tìm thấy trong Đạo Đức học phái Nicomachus: tối thiểu về hàng hóa vật chất cơ bản trong phạm vi hệ thống kinh tế, rèn luyện khả năng con người, sử dụng và phát triển trí thông minh, áp dụng tranh biện hợp lí và chọn lựa, biểu lộ tính cách qua hành động đạo đức, xã hội dựa trên hữu nghị và quan tâm lẫn nhau, khoái lạc như bài tập tự nhiên về khả năng con người, và thừa nhận tính chất không tự nhiên của những mục đích tiền bạc. Những đặc tính này sau đó được so sánh với tám nét phác họa tương tự về cuộc sống tốt méo mó trong lí thuyết chuyển nhượng nhân công của Marx: chủ nghĩa tư bản làm giảm khả năng con người bằng cách không cung cấp một kinh tế tối thiểu cho cuộc sống; công việc không biểu lộ nhu cầu con người, mà là chức năng thú vật; là kết quả sản xuất của ngu dốt và bị chuyển nhượng; lực lượng bên ngoài thị trường quyết định cuộc sống và không phải là chọn lựa hợp lí; quyền lực nhân công trở thành phương tiện cuộc sống và không là biểu lộ của nó; người ta trở thành phương tiện trong trao đổi hàng hóa; hệ thống sản sinh nổi đau chuyển nhượng và mất khả năng; và, cuối cùng, theo đuổi đồng tiển như một cái gì đó thuộc bản chất. Ẩn ngầm trong phê phán của Marx là lí thuyết cuộc sống tốt của ông, là biểu lộ đầy đủ của tồn tại giống loài.

Trong phần kế tiếp của tiểu luận, Miller tổng kết tính khách quan của Marx và Aristotle đối với chủ nghĩa vị lợi và lí thuyết các quyền tự nhiên bằng một phân tích nguyên bản chặt chẽ công trình của họ. Ông cho rằng Marx đã có những ưu thế khác ở trung tâm tư tưởng chính trị của ông – tự biểu lộ và tương hỗ - trong khi Aristotle đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tính cách tốt, sống đạo đức, hữu nghị và quan tâm lẫn nhau như các giá trị tối hậu của ông. Sau đó Miller phác họa lí thuyết công bằng xã hội của Aristotle bằng khảo sát những hình thức khác nhau của nó: công bằng phân phối, công bằng đúng sai, và công bằng tương hỗ. Sau bốn trang phân tích thì ông kết luận với tuyên ngôn rằng trong Marx “chúng tôi khám phá cùng một tầm nhìn mang tính kết quả luận mà chúng tôi đã bắt gặp trong Aristotle”. Bắt đầu với một nghiên cứu thú vị về vai trò của quyền trong chủ nghĩa xã hội của Marx, Miller lí luận rằng trao đổi nhân công mang tính hàng hóa không vi phạm quyền công bằng về trao đổi và, do đó, không phải là không công bằng (xem luận văn Allen Wood). Tuy nhiên, ông không để lí luận nằm ở đấy, vì ông nói rằng đấy không phải là quyền cơ bản đối với Marx khi ông có những kết quả phủ định nghiêm trọng; ông cũng đề cập rằng quyền công bằng trao đổi sẽ mâu thuẫn với những quyền và ưu tiên khác trong một xã hội xã hội chủ nghĩa. Chừng nào mà quyền được xem như phương tiện cho những mục đích cơ bản khác, như tự chủ, chân giá trị, tự biểu lộ, và tính hợp lí, thì chúng mới có hiệu lực. Kết quả của quyền là quan tòa sau cùng, tùy theo quan điểm này.

Marx và Aristotle thực sự bất đồng về những vấn đề này ở đâu – bên cạnh những trường hợp hiển nhiên về chế độ nô lệ, về sự thống trị trong xã hội cổ điển – là ở thứ bậc về hoạt động của Aristotle. Miller diễn giải Marx là kêu gọi tính đa dạng về hoạt động tri thức, tri giác, và chân tay và kết thúc đề tài của ông theo kiểu cách tư tưởng Aristotle là có một “ý thức vững chắc nhằm sở hữu một bản ngã thực sự, chấp nhận tính chất cá nhân của mình…chỉ có thể thịnh vượng khi các quan hệ xã hội được biểu thị bằng việc quan tâm lẫn nhau”.

Trong chương 10, “Chủ nghĩa Hiện Thực Đạo Đức của Marx”, Alan Gilbert bắt đầu bằng bình luận, rằng trong cáo trạng của Marx về chuyển nhượng và khai khẩn kinh tế, có một “tầm nhìn đạo đức tầm vóc lớn”. Lí thuyết đạo đức của Marx, cũng như lí thuyết công bằng của ông,đã đẩy mạnh tầm nhìn đạo đức vốn có trong nội dung lí thuyết eudaimonia (thịnh vượng) của Aristotle. Và chính sự thấu triệt này đã cung cấp thông tin giá trị cho việc hiểu lí thuyết chuyển nhượng của Marx và lí thuyết kính tế sau này của ông trong Tư Bản. Như trong trường hợp với tiểu luận của Miller, Gilbert phác họa những giá trị và vị trí tương tự của Marx và Aristotle: cả hai nhấn mạnh tầm quan trọng của cuộc sống tốt là hoàn thiện một hệ thống chính trị tự do, chính trị là biểu lộ tính cách đạo đức (đồng cảm và hữu nghị), phát triển một lí thuyết công bằng, và phúc lợi nằm ở việc cân nhắc thực tế, khôn ngoan, và chọn lựa tự do. Gilbert sau đó cũng tiếp tục so sánh eudaimonism (nhu cầu)thuyết vị lợi (khoái lạc) với sự phương hại của cái sau. So với các giá trị và lí tưởng của cuộc sống tốt được biểu lộ trong cộng đồng chính trị của Công Xã Paris 1871, thì thể chế và qui tắc của chủ nghĩa tư bàn hủy hoại và làm méo mó chính khả năng của hạnh phúc.

Chuyển nhượng, nghèo đói và bất công, tổn hại tồn tại giống loài, sản xuất hàng hóa (giá trị thặng dư và lao động trí tuệ), sự thống trị tầng lớp tô điểm bức tranh xã hội hiện đại mà trong đó các giá trị cổ điển cổ đại đều tương phản: hữu nghị, cuộc sống xã hội, cộng đồng chính trị, và tự nhận thức. Việc đặt cạnh nhau các thể chế xã hội hiện đại và các giá trị đạo đức cổ đại cổ điển hình thành nền tảng lí thuyết xã hội có tính phê phán của Marx. Gilbert tuyên bố rằng, với việc nhấn mạnh các thể chế chính trị và kinh tế hiện đại trong phân tích lí thuyết Marx, yếu tố cổ điển đã bị đánh mất. “Một số lí luận nguyên thủy nhất, sâu xa của Marx chống lại chủ nghĩa tư bản đều lấy cảm hứng từ Aristotle tức eudaimonist (lí thuyết đạo đức)”. Trong phần cuối của tiểu luận này, Gilbert đưa ra một phê phán thân thiện về một luận điểm phát triển bởi Richard Miller, rằng lí thuyết xã hội của Marx thiếu một lí thuyết đạo đức có hệ thống và mạch lạc, nghĩa là, thiếu những qui tắc chuẩn chung, phổ quát, và công bằng. Tiểu luận của ông sau đó phát triển thành một phân tích chi tiết hơn về bản chất của chính lí thuyết đạo đức. Tiểu luận của Joseph Margolis “Tập quán và Ý nghĩa” – chương 11 – tiếp cận mang tính phê phán và hoài nghi hơn những tác giả trước đó về quan hệ giữa Marx và Aristotle. Quả thật, ông nhấn mạnh vấn đề hố ngăn cách giữa họ rộng hơn bất cứ điều tượng tự nào mà họ có thể chia sẻ. Margolis muốn giành lại lí thuyết tập quán và đạo đức của Marx từ nỗ lực thất bại của thuyết duy vật lích sử và chủ nghĩa cộng sản Soviet. Aristotle có thể đã khuấy động tư tưởng Marx ở những chủ đề nhất định, nhưng hướng mà ông theo rất hiện đại và rất khác biệt: “Kết nối của Marx với Aristotle đơn thuần là một kết nối bao gồm việc nắm bắt một điểm xuất phát hữu ích: bất cứ khẳng định nào về những ràng buộc chặt chẽ đều hoàn toàn sai lạc”. Thuyết tồn tại giống loài của Marx biểu đạt một sự loại trừ thuyết tập quán của Aristotle, cũng như nhân loại học triết học của ông. Theo một phân tích chi tiết về ý niệm tồn tại giống loài của Marx, Margolis kết luận rằng Aristotle và Marx đã có những lí thuyết xung khắc. Quan điểm bản chất luận của Aristotle dựa vào quan điểm chung và không thay đổi về bản chất con người, trong khi của Marx mang tính lịch sử và xã hội đặc trưng cho quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội thay đổì. Bản chất con người có tính thực tiễn và lịch sử, vì nó thay đổi chính những điều kiện xã hội vốn cho nó định nghĩa và hình thức. Con người, như một Gattungswesen (bản chất con người),biến đổi những thể chế xã hội cũng như chính bản chất con người qua tập tục. Chắc chắn đây là một phê phán rõ rệt những luận điểm khác trong tập sách này.

Margolis bổ xung chi tiết trong phê phán của ông về kết nối này giữa Marx và Aristotle bằng một trích dẫn trong “Marx phái Aristotle” của Allen Wood trong công trình Karl Marx của ông. Kế tiếp, Margolis phê phán việc Marx loại trừ thứ bậc tri thức của Aristotle và những kết nối giữa triết học suy tư và hành động thực tế như đã phát triển trong Siêu Hình học Đạo Đức học phái Nicomachus. Ông nhấn mạnh rằng thuyết tập quán của Marx là một thuyết suy nghĩ lần theo dấu việc lập thành tư tưởng ngược về nguồn gốc lịch sử và xã hội của nó. Tập quán vì thế được đặt trong phạm vi ngữ cảnh của nhận thức luận duy vật và xã hội học tri thức; nó không phản ảnh quan điểm bản chất luận về bản chất con người. Đóng góp sau cùng vào tập hợp này là “Chủ quan, chủ nghĩa duy tâm phái Marx và Triết học Hy Lạp” của Tom Rockmore, chương 12. Tiểu luận này không có ý định phản ứng lại phê phán của Margolis về “trường phái Aristotle” của Marx, nhưng nó thỏa mãn một tuyến phòng thủ cho luận điểm này bằng cách nhấn mạnh sự liên tục giữa hai khái niệm hoạt động của Aristotle và của Marx. Rockmore tặng chúng tôi tổng quan lịch sử về đề tài một lí thuyết tri thức và đóng góp quan trọng của Marx. Người Hy Lạp có quan điểm về về chủ thể, nhưng chì đến khi có Cơ Đốc giáo thì chủ thể mới trở nên đồng nhất như một tồn tại cá nhân con người. Rockmore sau đó chuyển sang Descartes, xem ông như người khớp nối hiện đại một lí thuyết tri thức mới, ngưng tụ trong chủ thể nhận thức qua một quá trình nhận thức thuần túy (pure cogito). Hình thức ý thức này cung cấp cho Descartes nền tảng thuyết tri thức toàn thể của ông. Rockmore nhấn mạnh rằng tính chất chủ thể này là khán giả thụ động của những khách thể tri thức độc lập. Hình thức hiện đại này lần lượt bị những nhà duy tâm Đức phê phán, gồm Kant, Fichte, Hegel, và Marx.

Giả định duy tâm cơ bản là niềm tin của nó cho rằng thế giới khách quan có thể hiểu được, vì nó là sản phẩm phát minh và sản xuất của con người. Chủ thể là người-biết với khả năng hiểu khách thể, vì có một sự đồng nhất giữa chủ quan và khách quan ở một mức độ nào đó. Quan điểm này dịch chuyển khỏi nhận thức luận Descartes, biểu đạt một sự quay trở lại triết học Hy Lạp cổ đại bằng việc nhấn mạnh vào phẩm chất tích cực của chủ thể. Hoạt động suy tư của nhà triết học và hoạt động thực tế của công dân đều là những hình thức cao nhất của cuộc sống lí tính đối với Aristotle. Rockmore đầu tư vào lí thuyết hoạt động của Aristotle cùng các phạm trù tiềm năng và hiện thực, quá trình và kết quả, phương tiện và mục đích, của nó. Ông lí luận rằng chính khái niệm về hoạt động này đã kết nối nhiều thành viên duy tâm Đức khác nhau. Trong ngữ cảnh này Marx phản ảnh khoảnh khắc Aristotle trong thuyết chuyển nhượng và thuyết giá trị của ông. Phê phán chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng là những phản ảnh không đầy đủ thuyết phê bình của Marx, Rockmore quay sang thuyết tập quán của Marx tức hoạt động là cơ sở để giải thích thuyết của Marx về bản chất, tri thức, và xã hội con người. Gốc rễ khái niệm của ông lần ngược về người cổ đại. Mục tiêu của Marx là suy xét lại khả năng tự do thực tế trong phạm vi ngữ cảnh hiện đại về kinh tế và các quan hệ xã hội trong sản xuất: “Trong phần tiếp theo Fichte, Marx cũng bắt đầu từ con người thực khi trở lại có điều kiện thuyết thực tế của Aristotle”. Những trang cuối trong chương này tiếp tục bằng việc phê phán vài điểm yếu trong thuyết chủ thể của Marx,nhưng với thừa nhận giá trị đóng góp riêng của Marx trong thảo luận đó.

Các chương phác họa ở trên, trong những trích dẫn cùa họ, đã phát hiện sự giàu có và tinh tế công trình của Marx, chúng tiết lộ gốc rễ tầm nhìn đạo đức của ông ẩn dấu sau những lí tưởng cổ đại cổ điển Hy Lạp. Rất nhiều việc cần được thực hiện trong khu vực lí thuyết chính trị, xã hội học, và kinh tế của Marx nhằm phát triển những quan niệm này. Sách của riêng chủ bút, Marx và người Cổ đại, là một nỗ lực khiêm tốn như thế bằng cách liên hệ ánh sáng của tầm nhìn Hy Lạp với thuyết khủng hoảng kinh tế của Marx trong Grundrisse và Tư Bản, và phê phán của ông về thuyết giá trị nhân công của Locke và Ricardo trong Các Lí thuyết về Giá trị Thặng dư. Bằng cách xem kinh tế chính trị cổ điển của thế kỉ 19 qua lăng kính người cổ đại Hy Lạp, vai trò và vị trí của các nền kinh tế đã biến đổi triệt để; các nền kinh tế trở thành một tiểu vùng đạo đức và lí thuyết chính trị ở một mặt, và lệ thuộc vào cộng đồng ở mặt khác.Với thế kỉ 18 và 19 cùng sự phát triển của Khai Sáng và chủ nghĩa lãng mạn Đức , tia lửa khởi đầu từ Hy Lạp cổ đại lan tỏa ra phía bắc, trở thành “ngọn lửa phương bắc”.
..............

Marx và Aristotle đã nhóm lại một tập hợp xuyên ngành học thuật, tân thời và vượt trội, hầu hết được viết đặc biệt cho tập sách này, nhằm nhìn xa hơn sau bức màn lịch sử bằng cách khảo sát ảnh hưởng của triết học Hy Lạp cổ điển, đặc biệt qua Aristotle và Epicurus, ở Marx.

VẬY THÌ NỀN KĨ TRỊ LÀ GÌ

Tham khảo từ ALJAZEERA:

Phan Biên dịch.

VẬY THÌ NỀN KĨ TRỊ LÀ GÌ?

“Nền kĩ trị” là gì? Và tại sao các chính phủ kĩ trị ngày nay lại thịnh hành ở Châu Âu?

Bầu trời đang sụp đổ ! Châu Âu đang sụp đổ! Chúng ta có thể làm gì? Hãy nhìn, trên bầu trời: có một con chim! Có một chiếc máy bay, có một…nhà kĩ trị!

Được trù định nhằm cứu vãn những nước nhỏ và lớn ở châu Âu theo cùng một cách, giờ chúng tôi lại được điểm tô bằng sự xuất hiện đột ngột của chính phủ kĩ trị, như là một “dues ex machine” (god from machine – trời phật từ guồng máy) ở Ý, nơi nhà kinh tế Mario Monti đã được bổ nhiệm thủ tướng và Hy lạp, nơi nhà kinh tế Lucas papademos cũng đã được bổ nhiệm tương tự. Vì người hùng của thời đại chúng ta – chính phủ kĩ trị - ít được nhiều độc giả của chúng ta biết đến rộng rãi, chúng tôi triệu tập tinh thần kịch nghệ Hy lạp cho những đối thoại ngắn về chính phủ kĩ trị:

Q: Chính phủ kĩ trị là gi ?

A: Để trả lời câu hỏi này, trước hết chúng ta cần biết rõ các chính phủ được hình thành như thế nào trong hệ thống nghị viện, đó là điều mà chúng ta thấy ở Ý và Hy lạp (và hầu hết những nước dân chủ công nghiệp hóa tiên tiến nằm ngoài Hiệp Chủng Quốc). Không như hệ thống tổng thống – nơi tổng thống khá tự tiện chọn các bộ trưởng mà ông ta hay bà ta muốn đưa họ vào nội các – trong hệ thống nghị viện chính phủ được nghị viện chỉ định

Thường thì điều này cần sự đồng thuận của hơn một đảng chính trị, là kết quả của liên hiệp các đảng phái ủng hộ chính phủ đó. Vì một nửa của “sự đồng thuận liên hiệp” này, các bộ trưởng (hay còn gọi là Thư kí ở Mỹ) được chỉ định vào các đảng phái khác nhau, những người này sẽ cử các đại diện từ đảng của họ làm người đứng đầu các bộ trưởng tương ứng của họ. Hơn nữa, các đảng thỏa thuận về “Thủ Tướng” đứng đầu chính phủ, thường xuyên nhưng có giới hạn từ đảng lớn nhất trong liên hiệp. Gần như thường xuyên, việc đồng nhất “Thủ Tướng” này – phụ thuộc vào các kết quả bầu cử - được phân biệt trong suốt cuộc vận động bầu cử.

Q: Ok, vậy thì chính phủ kĩ trị là gì?

A: Một cách kĩ thuật (không có ý chơi chữ), chính phủ kĩ trị là một chính phủ mà các bộ trưởng không phải là những nhà chính trị chuyên nghiệp; quả thật, trong một số trường hợp, thậm chí họ không hề là thành viên của các đảng chính trị. Thay vào đó, họ được cho là “những chuyên gia” trong những lĩnh vực của các bộ tương ứng. Ví dụ cơ bản thế này, là Bộ Trưởng tài chính sẽ là một người nào đó có căn bản hàn lâm về kinh tế đã làm việc nhiều năm ở IMF, nhưng trước đó chưa ứng cử vào chức vụ nào, hoặc chưa dính dáng nhiều đến một chiến dịch bầu cử.

Q: thủ tướng có phải là một “nhà kĩ trị” ?

A: Trong vài trường hợp thì có, nhưng không phải đúng như thế. Bạn có thể có một thủ tướng từ một chính đảng dẫn đầu một chính phủ kĩ trị (vd: hầu hết các bộ trưởng thỏa mãn định nghĩa trên), hoặc bạn có thể có một thủ tướng kĩ trị cũng được.Tuy nhiên trong trường hợp chính phủ Ý lẫn Hy lạp thì Thủ Tướng vừa là nhà kĩ trị vừa là nhà kinh tế (nên biết rõ trong định nghĩa không nói một chính phủ kĩ trị phải cần một nhà kinh tế dẫn dắt! Một nhà khoa học chính trị cũng là lựa chọn tốt…).

Q: Tại sao các nước chỉ định chính phủ kĩ trị?

A: Lí do thực tiễn thường là vì chính phủ đó đã mất sự ủng hộ của nghị viện, nhưng vì nhiều lí do khác nhau (gồm cả luật pháp, thực dụng và chính trị), chưa đến kì tổ chức bầu cử. Nếu các đảng phái trong nghị viện không thể đồng thuận thành lập một chính phủ tiêu chuẩn. Khi một chính phủ kĩ trị được chỉ định trong một thờ gian ngắn đặc biệt nhằm chờ đợi kì bầu cử kế tiếp, nó cũng được biết đến với tên gọi “chính phủ trông nhà”.

Thậm chí nhằm làm các sự việc trở nên rắc rối thêm, có khả năng có một chính phủ trông nhà mang tính phe phái (đó là điều cơ bản hiện đang xảy ra tại Slovakia), không thể gọi đó là chính phủ kĩ trị, mà thường gọi là “chính phủ vịt què”.

Q: Điều này hoàn toàn không phải là chuyện xảy ra ở Ý hay Hy lạp, đúng không?

A: Ừ, chúng ta sẽ thấy rằng nếu họ hóa ra cũng là một chính phủ trông nhà, nhưng, không, đó không phải tư tưởng đằng sau chính phủ kĩ trị Hy lạp hay Ý. Vì giờ đây, đây là những trường hợp chính phủ kĩ trị mà đơn giản được ủy thác nhằm cai trị như bất cứ chính phủ nào khác trong hệ thống nghị viện. Vì thế chừng nào còn được sự ủng hộ của nghị viện tương ứng thì họ vẫn có thể ở lại chức vị.

Q: Vậy thì sao các nhà chính trị được bầu chẳng bao giờ chuyển giao quyền lực cho kĩ trị vốn không được bầu? Điều này có đi ngược lại bản chất của tất thảy những gì chúng ta biết về những nhà chính trị: đó là họ quan tâm trên hết đến việc giữ lấy chức vụ được bầu?

A: Điều này dẫn chúng ta đến sự nan giải của vấn đề về mặt chính phủ hiện hành. Điều có vẻ đang diễn ra là “sự khôn ngoan được thừa nhận” đang phát triển, là chỉ những chính phủ kĩ trị mới có thể thực hiện “những cải cách đau đớn cấn thiết” nhằm cứu vãn nước X nào đó. Lí thuyết ở đây là không có chính đảng nào muốn đơn độc trả giá cho những chính sách đau đớn theo nề nếp. Nếu đây là trường hợp mà ta đề cập thì một cách khả dĩ cho tình trạng khó khăn này là bổ nhiệm chính phủ kĩ trị không “thuộc” bất cứ đảng phái nào nhưng được tất thảy các đảng phái ủng hộ. Bằng cách này, trách nhiệm có thể được chia sẻ một cách cơ bản, và dù gì đi nữa thì chính phủ cũng có thể làm việc đúng.

Q: Liệu nó có tác dụng?

A: Thực ra tôi cũng không biết, nhưng có những lí do chính đáng để hoài nghi. Trước tiên, các nhà chính trị không đặc biệt giỏi trong việc “chia sẻ trách nhiệm”, điều này khiến sự cám dỗ sẽ có mặt khắp nơi, khi mà bất cứ thành viên nào của các chính đảng cũng có thể hạ giá chính phủ kĩ trị cho những lợi ích chính trị. Thứ đến, thậm chí các đảng chủ đạo ủng hộ chính phủ kĩ trị thì cũng không có nghĩa những đảng cực đoan cũng ủng hộ. Quả vậy, chính phủ kĩ trị được tất cả các đảng chủ đạo ủng hộ, đối với tôi, là một phương pháp hoàn hảo cho sự thăng tiến của các đảng phi-chủ đạo. (như nhận xét rất liên quan, đó chính xác là điều mà Radoslaw Markowski và tôi thấy đã xảy ra ở Ba lan, khi mà mọi chính đảng được các thành viên EU ủng hộ). Có một nghiên cứu nào đó chỉ ra rằng các chính phủ trông nhà chi tiêu ít hơn chính phủ tiêu chuẩn, nhưng tác giả gợi ý rằng điều này tương xứng với quyền lực suy giảm của chính phủ đó, không phải do bất cứ khả năng cắt giảm chi tiêu và/hoặc các chương trình khắc khổ bổ sung đặc biệt nào của các chính phủ trông nhà.

Q: Ok, nhưng thậm chí với những cảnh báo này, chính phủ kĩ trị vẫn nghe có vẻ rất kêu! Thế tại sao mọi người đều không có một cái nhể?

A: À, có vấn đề nhỏ này, đó là trong các nền dân chủ người ta có bổn phận bầu người trị vì của họ. Vì thề, theo định nghĩa, chính phủ kĩ trị không vận động cho chức vị, thật khó gọi một đất nước với chính phủ kĩ trị vĩnh cửu là một nền dân chủ. Thay vào đó bạn sẽ chấm dứt một hệ thống khi mà người dân chỉ bầu cho người mà sau đó lại bầu cho người lãnh đạo thực sự của chính phủ. Nó, nếu bạn chấm dứt nghĩ về nó, nghe có vẻ hơi giống với cơ cấu Viện Bầu Cử (electoral college) nguyên thủy của Hiệp Chủng Quốc…

Q: Liệu sự hiện diện của chính phủ kĩ trị ở Hy lạp và Ý có khuyến khích quân đội Ai cập (hoặc tương lai sẽ là những người dân chủ ở Trung đông và bắc Phi) tránh bầu cử dân chủ nhằm ủng hộ “chính phủ của những chuyên gia”?

A: Hmm…

Q: Mấu chốt là: liệu các chính phủ kĩ trị có cứu vãn châu Âu?

A: họ có thể tạo khả năng cho các chính sách nhất định được bổ sung trong nhiệm kỳ ngắn. Nhưng những vấn đề dài hạn hơn của châu Âu cần phải được giải quyết (hoặc không được giải quyết) bởi những viên chức được bầu của châu Âu. Dân chủ gần như là trách nhiệm giải trình. Trong khi có thể dìm trách nhiệm này trong nhiệm kì ngắn thì các chính sách dài hạn sẽ phải được ban hành – hoặc ít nhất phải được duy trì – bởi những viên chức được bầu. Những chính phủ kĩ trị này có thể chỉ là những thu xếp chóng vánh cho những vấn đề ngắn hạn, rất có thể sẽ là sai lầm nếu cho rằng họ hơn khác nhiều hơn thế.

Joshua A. Tucker là Giáo sư chính trị ĐH New York, nghiên cứu sinh về an ninh quốc gia của dự án an ninh quốc gia Truman, và là đồng tác giả của blog hàng đầu về chính trị và chính sách “Chiếc Lồng Khỉ”, nơi post phiên bản sớm nhất của bài viết này.
=========

Bài viết của một người Ấn Độ:


NHỮNG TƯ TƯỞNG MÀ HỌ CHO LÀ ĐÚNG…

Đây là một suy nghĩ đã theo tôi một thời gian dài. Nhưng tôi không chắc về cách thức sắp đặt nó sao cho đúng đắn. Đây chỉ là một nỗ lực.

Nhiều người trong số chúng ta gắn kết thiên về một hệ ý thức, như chủ nghĩa công sản, Cơ Đốc giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo, chủ nghĩa tư bản, v.v..họ nghĩ rằng ý thức hệ của họ là tốt nhất và cũng là ý thức hệ mà cả thế giới phải theo. Rất nhiều lần họ không đồng ý với người khác và tranh đấu nhằm mở rộng thêm nữa. Vì thế hôm nay tôi gắng thử tìm hiểu xem làm thế nào họ đạt đến một giai đoạn mà tại đó tâm trí họ trở nên bảo thủ.

Mỗi thế hệ sống trước chúng ta, thế hệ hiện tại của chúng ta và tất thảy những thế hệ sau đều đang chờ đợi nhằm tiếp quản từ chúng ta, tất thảy đều có một điểm chung. Họ không đồng ý với quan điểm của thế hệ trước, họ tranh đấu để thay đổi, họ cố gắng để thế hệ kế tiếp sống theo ý của họ, họ không đồng ý với thế hệ kế tiếp, họ tranh đấu với thế hệ kế tiếp nhằm duy trì quan điểm của mình và sau cùng, họ nghĩ rằng thế hệ của họ là tốt nhất mà thế giới từng biết và sẽ luôn biết. Mỗi thế hệ đều nghĩ, rằng tất thảy những thế hệ trước và sau họ đều sai. Một số gọi hiện tượng này là sự gián đoạn thế hệ.

Mặc du vẫn có vài người sống trong quá khứ (một thời điểm khác biệt trong quá khứ). Họ sẽ dùng những sự-việc hay ho ở những thời điểm kịch sử và nói rằng, đây là văn hóa của chúng ta và chúng ta phải sống như thế đấy. Chẳng hạn, một số người Ấn giáo cực đoan sẽ dùng vài yếu tố trong thời kì không có tôn giáo khác nào cả, những yếu tố như ăn mặc từ thời kì Hồi giáo cai trị Ấn Độ, hệ thống hôn nhân từ xã hội phương tây và nói rằng đấy là văn hóa của chúng ta. Họ tin vào những thần thoại Ấn giáo, lối sống khi mà không có tôn giáo khác. Nhưng họ không đồng ý với cách ăn mặc, hôn nhân của thời kì đó. Sự tự do của phụ nữ có được trong những thời kì này dễ dàng bị phớt lờ. Rồi thì họ chấp nhận cách ăn mặc của phụ nữ từ một thời kì khác trong quá khứ và ở một vùng khác của đất nước. Những tập quán và thực hành của phụ nữ thời trung cổ ở miền bắc Ấn dưới sự thống trị Hồi giáo thường được chiếu cố ở đây. Chế độ một vợ một chồng của công đồng Cơ Đốc giáo thời nay cũng thường được xem xét song hành.

Đó cũng là sự thực tương tự đối với những người cấp tiến khác. Nhưng thảo luận của chúng ta không phải thế. Tại sao họ lại trở nên quá vô tình với mặt trái của vấn đề? Làm thế nào mà một người lại có thể không liên quan đến phần còn lại của xã hội? Hôm qua tôi thảo luận về một siêu sao mới của điện ảnh Malaysia…Santhosh Pandit…!!! Làm sao mà anh ta có thể vô tình với phần còn lại của thế giới thế? Tại sao anh ta lại tin rằng mình tốt hơn và cách hành xử của mình là đúng?

Vậy thì chúng ta sẽ có những bài học từ tất thảy những sự việc này? Một người nào đó từng nói với tôi, “mỗi con người đều điên ở khía cạnh nào đó, theo cách này hay cách khác”. Vì thế tất thảy chúng ta (cũng có thể chỉ có tôi) đều có một loại lập dị nào đó. Chúng ta tin rằng chúng ta đúng và những người khác phê phán là vì họ không coi trọng chúng ta hoặc họ quá non kém chưa thể hiểu. Nhưng chúng ta đã gọi Abdul Kalam*, là một kẻ lập dị ngay từ lúc đầu!!! Rất ít người có lẽ đã đồng ý…Hôm nay ông là người hùng của phần lớn người dân trong đó có tôi. Vậy thì một số tính lập dị là tốt. Và tất thảy những người cho rằng ông ta là một người lập dị, đều hiểu mặt tốt đẹp đó !!!


Việc đầu tiên mà chúng ta làm là, hãy cất những chỉ trích đi. Chúng ta không thèm lắng nghe họ. Chúng ta luôn giữ khoảng cách với họ. Nếu chúng ta nghĩ, ông ta lập dị, chúng ta có xu hướng tránh nói chuyện với họ trong chủ đề đó. Cũng tương đối với những người khác. Họ dừng thảo luận với chúng ta ở bất cứ chủ đề nào mà họ nghĩ rằng chúng ta quá nhiệt tình. Chẳng hạn, chúng ta sẽ không nói một người cộng sản trung kiên rằng, chính sách của ông là sai. Thay vào đó, chúng ta sẽ chấp nhận những gì ông ta đề cập và tránh thảo luận về chủ đề đó, sau đó bắt sang người khác và nói, “tôi chỉ muốn thoát khỏi gã đó thôi”.

Điều này thường xảy ra, khi chúng ta thảo luận với các bà. Nếu chúng ta bắt đầu lí luận, họ lập tức cá nhân hóa chủ đề bằng cách nói về những trường hợp trong cuộc sống riêng tư, những quan hệ, những thành viên gia đình gần gũi, v.v..và đặt chúng ta vào tình huống mà chúng ta hoặc phải chấp nhận những gì họ đang nói, hoặc phải kể ra rằng các thành viên gia đình mình hơi tệ. Một tình huống mà tôi trải nghiệm vài lần trong đời, đó là bằng cách phát biểu khái quát hóa về phụ nữ. Vấn đề tiếp theo mà họ yêu cầu sẽ là, “mẹ ông cũng là một phụ nữ”, “thế nếu đó là chị em của ông?”, v.v..Vì thế tôi, hoặc là phải chấp nhận mẹ mình cũng như thế, điều mà rõ ràng tôi không thể chấp nhận, hoặc là tôi phải chấp nhận tôi sai. Vì thế cách dễ nhất là tránh bất cứ những thảo luận về những chủ đề như thế với phụ nữ.

Bằng cách đó, chúng ta khiến những phê bình của mình, hoặc mọi người với ý thức hệ khác nhau xa rời chúng ta. Thế những ai luôn gần gũi chúng ta? Đó là những người có cùng ý thức hệ. Chúng ta bàn luận cùng họ. Họ giúp chúng ta thặng tiến cùng những quan niệm thặng tiến như nhau và thuyết phục rằng chúng ta đúng. Tôi có một trải nghiệm.Tôi thường lui tới những tổ chức nhất định có liên hệ với Cơ Đốc giáo và việc cầu nguyện. Bất cứ khi nào tôi rảnh rỗi, tôi thường đến và ngồi với họ. Đã thành thông lệ, là khi tôi không ở lớp hay ở nhà, tôi đều đến với họ. Khi đó tôi không biết điều gì đang xảy ra ở bên ngoài và lâm vào trạng thái là, chỉ thông qua Jesus thì chúng ta mới tới thiên đàng và có rất nhiều khái niệm như thiên đàng, địa ngục và tất thảy đều rất thực đối với tôi. Đó là phần tích cực. Phần tiêu cực là, tôi bắt đầu phê phán các tôn giáo khác. Cho rằng những người khác họ đều sai, mà không thực sự biết điều người ta đang giảng dạy. Tôi phê phán Ấn giáo mà không đọc bất cứ sách vở nào về tôn giáo đó, hoặc tìm hiểu nghiêm túc từ một chuyên gia về Ấn giáo, mà chỉ bằng cách nghe những gì các cụ đang nói trong tổ chức của mình. Và cũng tương tự với những ý thức hệ khác.

Vì thế nếu bạn tin tưởng vào một hệ tư tưởng nào đó, hãy chắc rằng bạn đã trang trải đủ thời gian với những người trung dung và phê phán bạn mà không sợ (bạn tốt, vợ, mẹ, v.v..), hoặc người có ý thức hệ đối lập. Hãy đọc cùng một khối lượng dữ kiện về tôn giáo của bạn và của người khác. Có thế bạn mới có thể đạt được trạng thái tốt, hơn là bảo thủ khép kín.

Posted 30th August 2012 by Basil Paulose

* Cựu Tổng Thống Ấn Độ 2002-2007, tác giả bức thư “cuộc sống năm 2070” cảnh báo về môi trường – nd.

Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2012

Phỏng vấn S. Hawking.

STEPHEN HAWKING:

Tôi muốn có một ý tưởng mới có thể mở ra một lĩnh vực mới

PHI HÙNG và QUANG VINH dịch



STEPHEN HAWKING là một trong những nhà vật lý vĩ đại nhất của thế giới, nổi tiếng với các công trình về lỗ đen. Điều kiện sức khoẻ của ông chỉ cho phép ông giao tiếp nhờ những co giật ở má. Dưới đây là bài trả lời phỏng vấn của ông với New Scientist nhân dịp ông tròn 70 tuổi.

Sự phát triển gây nhiều ấn tượng nhất về vật lý trong suốt khoảng thời gian sự nghiệp của ông là gì?

Khám phá của COBE về những biến đổi nhiệt độ nhỏ của nền bức xạ viba vũ trụ và sự xác nhận sau đó được thực hiện bởi WMAP rất phù hợp với các dự đoán của giả thuyết vũ trụ lạm phát. Vệ tinh Planck có thể phát hiện ra dấu vết của các sóng hấp dẫn dự đoán bởi giả thuyết lạm phát. Đó là sự biểu hiện của hấp dẫn lượng tử được viết trên không gian.

Vệ tinh COBE và WMAP đã đo nền bức xạ viba vũ trụ (CMB), là ánh sáng còn sót lại sau vụ nổ lớn đã lan truyền khắp không gian. Nhiệt độ của nó hầu như đồng đều – chứng cứ này thúc đẩy mạnh lý thuyết lạm phát. Lý thuyết này dự đoán là vũ trụ đã trải qua một thời kỳ của sự giãn nở rất nhanh sau vụ nổ lớn làm san bằng tất cả những gì gồ ghề. Nếu lạm phát đã xảy ra, nó sẽ gửi các làn sóng qua không–thời gian, đó là sóng hấp dẫn , nguyên nhân của những biến đổi tinh vi trong nền bức xạ viba vũ trụ rất khó để phát hiện ở khoảng cách xa. Vệ tinh Planck thực hiện nhiệm vụ của Cơ quan không gian châu Âu là đo đạc độ nền bức xạ viba vũ trụ với độ chính xác lớn hơn , có thể sẽ nhìn thấy chúng dễ dàng.

Einstein đã xem hằng số vũ trụ là “sai lầm lớn nhất” của ông ấy. Còn của ông là gì?

Tôi từng nghĩ rằng thông tin bị triệt tiêu trong các hố đen. Nhưng mối tương quan giữa không gian anti-de-Sitter và Lý thuyết trường conform (AdS/CFT) làm thay đổi tư duy của tôi. Đây là sai lầm lớn nhất của tôi, hay ít nhất đó là sai lầm lớn nhất của tôi trong khoa học.

Các lỗ đen hút hết mọi thứ, bao gồm cả thông tin, nếu chúng ở phạm vi quá gần. Nhưng vào năm 1975, cùng với nhà vật lý người Israel Jakob Bekenstein, Hawking đã chỉ ra rằng các lỗ đen phát ra bức xạ một cách chậm rãi, nguyên nhân làm chúng bốc hơi và cuối cùng biến mất. Vậy, chuyện gì đã xảy ra với thông tin mà chúng nuốt chửng? Trong vài thập niên Hawking đã lý luận rằng nó đã bị phá hủy. Điều này là một thách thức đối với tư tưởng về tính liên tục và nhân quả. Tuy nhiên năm 1997, nhà lý thuyết Juan Maldacena đã phát triển ngắn gọn bằng toán học mối tương quan giữa không gian anti-de-Sitter và Lý thuyết trường conform" , viết tắt là AdS/CFT.

Để ghi dấu ngày sinh nhật của Hawking, Trung tâm lý thuyết vũ trụ học, Đại học Cambridge, đăng cai một hội nghị chuyên đề có tên là “Trạng thái của vũ trụ” vào ngày 8 tháng 1 (xem trực tuyến tại ctc.cam.ac.uk/hawking70/multimedia.html) Cuộc triễn lãm về cuộc sống và công việc của ông mở cửa tại bảo tàng khoa học, London, vào ngày 20 tháng 1.
Lý thuyết này liên kết các sự kiện trong hình học không-thời gian cong, ví như trong lỗ đen, với một vật lý đơn giản hơn tại biên của không gian. Vào năm 2004, Hawking đã sử dụng lý thuyết này để chỉ ra rằng thông tin trong hố đen rò rỉ trở lại vào vũ trụ của chúng ta thông qua các nhiễu loạn cơ học lượng tử tại biên của nó, hoặc còn gọi là đường chân trời. Việc công nhận sai sót làm Hawking chịu thua trong một lần đánh cuộc với nhà lý thuyết đồng nghiệp John Preskill một thập kỷ trước đó.

Khám phá gì có thể đóng góp nhiều nhất cho cuộc cách mạng về sự hiểu biết của chúng ta về vũ trụ?

Sự phát hiện các hạt siêu đối xứng tại máy gia tốc LHC (Large Hadron Collider) sẽ có thể là chứng cớ hùng hồn ủng hộ lý thuyết M?

Tìm kiếm các hạt siêu đối xứng là mục tiêu chính của LHC tại CERN. Mô hình chuẩn của vật lý hạt có thể hoàn thiện nếu tìm thấy hạt boson Higgs, và một số vấn đề có thể được giải quyết nếu tất cả các hạt cơ bản đã biết có một “siêu đối tác” nặng hơn. Dấu hiệu của siêu đối xứng có thể hỗ trợ cho lý thuyết M, phiên bản 11 chiều của lý thuyết dây. Lý thuyết dây là một nỗ lực lớn nhất và thành công nhất hiện nay trong việc tìm kiếm "lý thuyết cho mọi thứ" để thống nhất lực hấp dẫn với các lực khác trong tự nhiên.

Nếu là một nhà vật lý trẻ mới bắt đầu từ hôm nay, ông sẽ nghiên cứu về vấn đề gì?

Tôi muốn có một ý tưởng mới có thể mở ra một lĩnh vực mới. 

Ông nghĩ về cái gì nhiều nhất trong ngày? 

Về Phụ nữ. Với tôi họ luôn là bí ẩn tuyệt đối.
===================================


Vũ trụ đang giãn nở có gia tốc




Một số người cho rằng vũ trụ sẽ có chung cuộc trong lửa, một số người khác lại nói rằng trong băng. Vậy số phận của vũ trụ sẽ như thế nào? Có lẽ vũ trụ sẽ kết thúc trong băng nếu chúng ta tin vào những nhà khoa học đoạt giải Nobel Vật lý 2011.

Số phận của vũ trụ

Hàn lâm viện Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã thông báo trao giải Nobel Vật lý 2011 cho ba nhà khoa học (ảnh bên, từ trái sang phải): Saul Perlmutter, đề án SCP (Supernova CosmologyProject), Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Berkeley và Đại học California , Mỹ, sinh 1959 Champaign-Urbana, IL, Mỹ; Brian P. Schmidt , nhóm nghiên cứu HZT (High-z Supernova Search Team) Đại học quốc gia Australia, Weston Creek, Australia, sinh 1967, Missoula, MT, Mỹ, (hai quốc tịch Úc và Mỹ); Adam G. Riess, nhóm nghiên cứu HZT, Đại học Johns Hopkins và Viện khoa học viễn vọng vũ trụ, Baltimore, Mỹ, sinh 1969, Washington, DC, Mỹ. Họ đã nghiên cứu thận trọng nhiều siêu tân tinh (supernovae)[1], trong nhũng thiên hà xa xôi và kết luận rằng vũ trụ đang giãn nở có gia tốc.

Sự phát hiện này thậm chí là một điều kinh ngạc ngay đối với cả các nhà vật lý Nobel năm nay. Những điều họ trông thấy giống như khi ném một quả bóng lên trời và thay vì rơi xuống đất quả bóng lại càng ngày càng biến nhanh trong không trung, dường như lực hấp dẫn không còn khả năng điều khiển để quay ngược quỹ đạo quả bóng xuống mặt đất. Một tình huống tương tự đã xảy ra cho toàn vũ trụ (Hình 1).


Hình 1. Vũ trụ đang lớn dần.Quá trình giãn nở của Vũ trụ bắt đầu từ vụ nổ Big Bang cách đây 14 tỷ năm song quá trình đó lại chậm dần trong nhiều tỷ năm đầu. Sau đó Vũ trụ lại bắt đầu giãn nở có gia tốc. Gia tốc được cho là có nguyên nhân bởi năng lượng tối mà lúc ban đầu chỉ chiếm một phần nhỏ trong vũ trụ. Vật chất loãng dần vì quá trình giãn nở và tỷ phần của năng lượng tối trở nên áp đảo.

Tốc độ tăng dần của quá trình giãn nở có nghĩa rằng vũ trụ bị đẩy ra xa nhau bởi một dạng năng lượng tối chưa biết tiềm ẩn trong không gian. Năng lượng tối chiếm một phần lớn trong vũ trụ, hơn 70% và năng lượng tối là một điều bí ẩn lớn nhất trong vật lý học hiện đại. Vũ trụ học bị rung chuyển đến tận gốc khi hai nhóm nghiên cứu độc lập với nhau đưa ra những kết quả nghiên cứu giống nhau về hiện tượng giãn nở có gia tốc của vũ trụ vào năm 1998.

Saul Perlmutter lãnh đạo một trong hai nhóm đó trong Đề án vũ trụ học siêu tân tinh (Supernova Cosmology Project-SCP) bắt đầu một thập kỷ trước đây vào năm 1988. 

Brian Schmidt lãnh đạo nhóm thứ hai cuối năm 1994 thực hiện đề án Truy tìm siêu tân tinh có z lớn (High-z Supernova Search Team-HZT), trong nhóm này nhà vật lý Adam Riess đóng vai trò quan trọng. Tham số z là tham số đo độ lệch về phía đỏ (redshift parameter).

Hai nhóm này nghiên cứu vũ trụ bằng cách truy tìm những siêu tân tinh (Hình 2a) ở xa, đó là những sao bùng nổ trong vũ trụ. Bằng cách thiết lập khoảng cách đến các siêu tân tinh và tốc độ chúng đi xa chúng ta các nhà khoa học hy vọng phát hiện số phận của vũ trụ. Họ hy vọng rằng vũ trụ đang giãn nở chậm dần, và điều này có thể dẫn đến sự cân bằng giữa một chung cuộc trong lửa và một chung cuộc trong băng. Song điều họ phát hiện ra lại là một điều trái ngược - quá trình giãn nở đang xảy ra với gia tốc.


Hình 2a . Hình ảnh nghệ thuật của một siêu tân tinh trên bầu trời

Hình 2b . Ánh sáng chuẩn với độ sáng ổn định là cần thiết cho việc đo khoảng cách đến các sao

Vũ trụ đang lớn dần 

Đây không phải là lần đầu tiên mà những phát hiện thiên văn làm đảo lộn nhận thức của chúng ta về vũ trụ. Chỉ một trăm năm trước đây vũ trụ được xem như một thực thể bình yên không lớn hơn giải Ngân hà của chúng ta. Đồng hồ vũ trụ gõ nhịp đều đều còn vũ trụ thì vĩnh cửu. Song một chuyển biến cơ bản đã làm thay đổi bức tranh đó.

Đầu thế kỷ 20 nhà thiên văn Mỹ Henrietta Suwan Leavitt đã tìm ra cách đo khoảng cách đến những sao ở xa. Henrietta Leawitt đã nghiên cứu nhiều sao pun-xa (pulsating stars)[2] gọi là Cepheids [3] và tìm thấy rằng chu kỳ càng dài thì độ sáng càng lớn. Sử dụng thông tin này Leawitt có thể tính được độ sáng nội tại của các Cepheids.

Nếu khoảng cách của một trong các sao Cepheids được biết thì khoảng cách đến các Cepheids khác có thể thiết lập được- độ sáng càng nhỏ thì sao càng ở xa (Hình 2b). Một ngọn nến chuẩn đã hình thành và đó sẽ là thước chuẩn để đo vũ trụ. Sử dụng các Cepheids, các nhà thiên văn đã sớm đi đến kết luận rằng giải Ngân hà chính là một trong những thiên hà trong vũ trụ. Và trong năm 1920 các nhà thiên văn đã sử dụng kính thiên văn lớn nhất lúc bấy giờ Mount Wilson ở California để tìm thấy rằng hầu hết các thiên hà đều chuyển động xa dần. Họ nghiên cứu đại lượng gọi là độ lệch về phía đỏ ( redshift), độ lệch này xuất hiện khi một nguồn ánh sáng chuyển động xa chúng ta. Độ dài sóng ánh sáng giãn ra, sóng dài thêm và màu sắc của ánh sáng trở thành đỏ hơn. Ngoài ra khi một thiên hà càng ở xa thì thiên hà đó chuyển động ra xa càng nhanh hơn - đó là định luật Hubble. Như vậy vũ trụ càng ngày càng lớn dần.

Hằng số vũ trụ λ

Năm 1915, Albert Einstein công bố Lý thuyết Tương đối Tổng quát và đây là lý thuyết cơ bản để hiểu vũ trụ. Lý thuyết này mô tả một vũ trụ không giãn nở cũng không co lại. Song sự phát hiện hiện tượng giãn nở của vũ trụ đã gây nhiều khó khăn cho lý thuyết. Để làm dừng hiện tượng giãn nở, Einstein đã thêm một hằng số vào các phương trình của mình, đó là hằng số vũ trụ l (lambda): 

Rab – ½ Rgab + λ gab = 8πGT ab
trong phương trình trên G là hằng số Newton, Tab là tenxơ năng-xung lượng. Trị số và dấu của hằng số λ dẫn đến những kịch bản khác nhau và được khảo sát bởi George Lemaitre, thầy tu người Bỉ, giáo sư đại học Louvain.

Sau này Einstein cho rằng việc đưa thêm hằng số vũ trụ vào lý thuyết là một sai lầm. Tuy nhiên một điều kỳ diệu là những quan trắc thực hiện trong những năm 1997-1998 (dẫn đến giải Nobel năm nay) cho phép chúng ta nói rằng việc đưa hằng số vũ trụ vào lý thuyết (ban đầu nhằm một mục đích khác) bây giờ trở nên một điều kỳ diệu, một thắng lợi lớn của vũ trụ học.

Sự phát hiện vũ trụ giãn nở là một bước dẫn nhận thức của chúng ta đến hiện tượng Bigbang, một vụ nổ xảy ra cách đây khỏang 14 tỷ năm. Thời gian và không gian đột hiện và từ đó vũ trụ luôn giãn nở, các thiên hà chuyển động xa nhau ra.

Siêu tân tinh- một chuẩn đo mới của vũ trụ 

Khi Einstein loại bỏ hằng số vũ trụ khỏi lý thuyết và công nhận vũ trụ không là một vũ trụ tĩnh (static), ông đã gắn liền số phận của vũ trụ với hình học. Vũ trụ có thể mở hoặc đóng hoặc là một vũ trụ trung gian giữa hai hình học đó tức vũ trụ phẳng.

Một vũ trụ mở là một vũ trụ trong đó lực hấp dẫn của vật chất không đủ lớn để ngăn lại quá trình giãn nở. Vật chất pha loãng trong không gian. Một vũ trụ đóng là một vũ trụ trong đó lực hấp dẫn có khả năng làm đảo ngược quá trình giãn nở. Vũ trụ đến một lúc nào đó ngừng giãn nở co lại trong một chung cuộc nóng bỏng và khốc liệt gọi là Big Crunch. Nhiều nhà vũ trụ học mơ ước một vũ trụ với hình học phẳng đơn giản hơn và đẹp hơn về mặt toán học, trong vũ trụ phẳng không có chung cuộc trong lửa và trong băng. Song nếu tồn tại hằng số vũ trụ thì quá trình giãn nở vẫn tiếp diễn ngay cả đối với vũ trụ phẳng.

Các nhà vật lý đoạt giải Nobel Vật lý năm nay hy vọng tìm thấy vũ trụ giãn nở chậm lại. Phương pháp họ sử dụng ở đây cũng là phương pháp mà các nhà thiên văn học đã sử dụng hơn sáu thập kỷ trước: định vị các sao và đo sự chuyển động của chúng. Song nói thì dễ mà làm thì khó. Từ ngày Henrietta Leawitt, nhiều sao Cepheids đã chuyển động xa và ở những khoảng cách hàng tỷ năm ánh sáng nên các sao Cepheids không còn trông thấy được nữa.
Phải tìm những chuẩn đo mới. 

Siêu tân tinh – những sao bùng nổ- trở thành những ngọn nến quy chiếu mới. Nhiều kính viễn vọng tinh vi trên mặt đất và trong vũ trụ cộng với những siêu máy tính, những sensor siêu nhạy CCD (Charge-coupled Devices) đã mở ra nhiều khả năng giải quyết bài toán.

Sao lùn trắng bùng nổ

Một công cụ mới nhất của các nhà thiên văn là sự bùng nổ của một loại siêu tân tinh có tên là siêu tân tinh Ia. Trong một vài tuần lễ một siêu tân tinh loại Ia có thể bức xạ ánh sáng ngang bằng ánh sáng của cả một thiên hà. Loại siêu tân tinh này là sự bùng nổ của một sao đã già rất compắc, nặng bằng Mặt trời nhưng nhỏ bằng Quả đất, một sao lùn trắng (white dwarf)[4]. Sự bùng nổ là bước kết thúc cuộc đời của sao lùn trắng.

Sao lùn trằng hình thành khi sao không còn năng lượng ở tâm, vì tất cả hydro và helium đã cháy hết trong các phản ứng hạt nhân. Chỉ còn lại carbon và oxygen. Tương tự như thế Mặt trời của chúng ta trong tương lai xa cũng chia sẻ số phận đó, Mặt trời trở nên lạnh dần và trở thành một sao lùn trắng.

Nhiều sao lùn trắng là thành phần của một hệ sao đôi. Trong trường hợp này trường hấp dẫn mạnh của sao lùn trắng hút dần vật chất của sao đồng hành để lớn dần lên. Và khi sao lùn trắng phình lớn lên cỡ 1,4 khối lượng Mặt trời (giới hạn Chandrasekhar[5]) thì hệ bùng nổ thành một siêu tân tinh loại Ia (Hình 3).


Hình 3. Bùng nổ siêu tân tinh. Một sao lùn trắng cuốn hút lấy vật chất của sao đồng hành trong hệ sao đôi nhờ lực hấp dẫn. Khi sao lùn trằng phình lớn đến cỡ 1,4 khối lượng mặt trời thì nó bùng nổ thành siêu tân tinh loại Ia.

Những sản phẩm nhiệt hạch có bức xạ mạnh và bức xạ này tăng dần nhanh chóng trong những tuần đầu sau vụ nổ và chỉ giảm đi sau vài tháng tiếp theo. Do đó mà cần một cuộc rượt đuổi truy tầm các siêu tân tinh vì sự bùng nổ của chúng tương đối là ngắn ngủi. Trong toàn phần vũ trụ mà ta trông thấy được mỗi phút xuất hiện khoảng mười siêu tân tinh loại Ia. Song vũ trụ quá bao la trong mỗi thiên hà chỉ có chừng một hoặc hai siêu tân tinh trên một nghìn năm. Vào tháng 9/2011 chúng ta may mắn quan sát một siêu tân tinh như vậy trong thiên hà gần Big Dipper . Song phần lớn siêu tân tinh ở xa và mờ. Như vậy ở đâu và khi nào chúng ta nhìn được siêu tân tinh trên bầu trời? 

Một kết luận gây kinh ngạc

Hai nhóm các nhà vật lý hiểu rằng họ phải rà soát cả bầu trời để tìm siêu tân tinh ở xa. Thủ thuật là ở chỗ phải so sánh hình ảnh của hai mảnh trời nhỏ, hình thứ nhất thu được lúc sau trăng non và một hình thu được sau 3 tuần. Tiếp đó so sánh hai hình để hy vọng tìm thấy một điểm sáng – một pixel giữa nhiều pixel khác trên hình CCD- điểm sáng đó có hy vọng là dấu hiệu của siêu tân tinh ở một thiên hà xa xôi (Hình 4).


Hình 4. Siêu tân tinh 1995. Hai hình của cùng một mảnh trời nhỏ thu được cách nhau ba tuần lễ được đem ra so sánh với nhau. Trong hình thứ hai một điểm sáng đã được phát hiện. Đó là dấu hiệu của một siêu tân tinh. Một siêu tân tinh có thể phát ra ánh sáng bằng cả một thiên hà. Phần lớn ánh sáng được phát ra trong các tuần đầu (xem đồ thị ).

Các nhà vật lý có rất nhiều việc phải làm. Cần phải lọc được ánh sáng siêu tân tinh từ ánh sáng phông của thiên hà chủ. Một công việc quan trọng khác là xác định được độ sáng. Những bụi vũ trụ giữa các thiên hà và các sao làm thay đổi độ sáng. Những điều đó ảnh hưởng đến việc xác định độ sáng tối đa của siêu tân tinh. Họ phải thao tác thật nhanh mọi phép đo vì siêu tân tinh mau tàn dần.

Các nhà vật lý đã tìm ra khoảng 50 siêu tân tinh nằm ở xa với ánh sáng mờ hơn mong đợi. Đây là điều trái ngược với những điều họ hình dung. Nếu quá trình giãn nở mất dần tốc độ thì ánh sáng các siêu tân tinh phải mạnh hơn. Song các siêu tân tinh đang mờ nhạt dần dường như chúng đang chuyển động xa dần càng xa càng nhanh rồi chìm trong thiên hà của chúng. Kết luận đầy ngạc nhiên là quá trình giãn nở không chậm dần mà ngược lại tăng tốc lên.

Từ đây đến vĩnh hằng

Điều gì làm tăng tốc giãn nở của vũ trụ? Đó là năng lương tối, một vấn đề thách thức các nhà khoa học và chắc còn lâu mới có lời giải. Nhiều ý tưởng được nêu ra. Phương án đẹp nhất là tái nhập hằng số vũ trụ Einstein vào lý thuyết, hằng số mà đã có một thời bản thân Einstein muốn từ bỏ (Hình 5). Hiện nay hằng số Einstein có nhiệm vụ khác đó là làm tăng tốc quá trình giãn nở của vũ trụ.


Hình 5. Sự phát hiện quá trình giãn nở có gia tốc của vũ trụ là một sự kiện quan trong của năm 1998 (tạp chí Science). Trên tờ bìa Albert Einstein đang đắm nhìn vào hằng số vũ trụ mà bây giờ đang trở thành hắng số quan trọng trong vũ trụ học.

Hằng số vũ trụ có thể có nguồn gốc từ chân không. Như chúng ta biết trong chân không luôn hình thành các hạt và phản hạt và tạo nên năng lượng. Song một tính toán sơ bộ có thể cho thấy rằng năng lượng tối không tương ứng với năng lượng chân không vốn 10120 lần lớn hơn.

Cũng có thể rằng năng lượng tối không là một hằng số, có thể năng lượng tối biến thiên theo thời gian. Dẫu năng lượng tối là thế nào đi nữa thì năng lượng tối đã cho lời giải thích đối với bài toán mà các nhà khoa học nghiên cứu đã lâu. Theo đồng thuận hiện nay giữa các nhà khoa học thì năng lương tối chiếm khoảng ba phần tư vũ trụ. Vật chất thông thường (thiên hà, các sao, con người, hoa cỏ,...) chỉ chiếm khoảng 5 % vũ trụ. Phần còn lại là vật chất tối. Năng lượng tối gây lực đẩy, vật chất tối gây lực hút (Hình 6). 


Hình 6. Năng lượng tối chiếm ¾ vũ trụ hiện nay vẫn là một năng lượng bí ẩn.Vật chất thông thường chiếm 5 % phần còn lại là vật chất tối , một loại vật chất cũng còn bí ẩn như năng lượng tối.

Kết luận 

Sự phát hiện quá trình giãn nở có gia tốc của vũ trụ dựa trên những quan sát các siêu tân tinh ở xa bởi ba nhà vật lý: Saul Perlmutter, Brian P. Schmidt và Adam G. Riess là một thành tựu khoa học to lớn gây kinh ngạc giới khoa học. Đây là một đóng góp quan trọng vào vũ trụ học. Ba nhà vật lý trên đã vén một góc màn bí ẩn của vũ trụ hiện đang còn chứa rất nhiều điều mà chúng ta chưa biết. Nhiều vấn đề lớn (năng lượng tối, vật chất tối,...) vẫn còn chờ lời giải trong tương lai. 

CC. biên dịch và chú thích
-------------
Tài liệu gốc

The Nobel Prize in Physics (Press Release, Popular Information, Advanced Information-Scientific Background)

Các chú thích

[1] siêu tân tinh (超 新 星) =supernovae là những sao đột nhiên bùng nổ trở nên rực sáng mãnh liệt; có hai loại siêu tân tinh loại I và loại II, loại I có độ sáng nhất và thuộc hệ sao đôi; chữ nova có nghĩa là mới. 

[2] pun-xa (pulsar)=sao neutron (với thành phần chính là neutron) có chuyển động quay, phát bức xạ radio vũ trụ với chu kỳ;pun-xa là một loại sao biến đổi (variable star).

[3] Cepheids =những pun-xa khổng lồ có độ sáng thay đổi theo chu kỳ; giữa chu kỳ và độ sáng có một hệ thức đặc trưng: chu kỳ càng dài thì độ sáng càng lớn (the brighter ones had longer pulses); như vậy chu kỳ quan sát được là chỉ số đo khoảng cách của sao vì vậy các Cepheids đóng vai trò quan trong trong việc xác định các khoảng cách. Cepheids được phát hiện năm 1912 bởi Henrietta Leavitt.

[4] sao lùn trắng = sao ở giai đoạn tiến triển cuối cùng, nếu khối lượng của sao nhỏ hơn 1,4 khối lượng Mặt trời (giới hạn Chandrasekhar) thì sao có khả năng chống lại sự co hấp dẫn vì những electron tự do tạo nên một áp suất hướng ra ngoài cân bằng được lực hấp dẫn, một sao nóng như vậy gọi là sao lùn trắng.

[5] Giới hạn Chandrasekhar=giới hạn khối lượng của một sao bằng khoảng 1,4 khối lượng Mặt trời, trên giới hạn đó không tồn tại sao lùn trắng.